Thứ Bảy, 15 tháng 2, 2014

VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM 1919 - 1930

I) Tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam sau chiến tranh thế giới thứ nhất

Đợt khai thác thuộc địa lần thứ hai.
1. Tình hình chính trị 
Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, thực dân Pháp đã tiến hành một số cải cách về chính trị nhằm đối phó với những biến động có thể xảy ra  ở thuộc địa và  hỗ trợ đắc lực cho chương trình khai thác thuộc địa lần thứ hai. Mục tiêu của các cuộc cải cách nhỏ giọt đó không gì hơn ngoài việc nới rộng nền tảng xã hội ( chế độ thuộc địa).
Các viên toàn quyền Pháp từ A. Xa rô, M. Lông đến A. Va ren đã lần lượt ban hành những chính sách theo hướng trên. Do đó, các viện dân biểu Bắc Kỳ Trung Kỳ được thành lập, các phòng thương mại và canh nông của những thành Phố lớn được mở rộng cho người Việt tham gia. Năm 1928, thực dân Pháp lập ra Đại hội đồng Kinh tế Tài chính Đông Dương với tư cách là cơ quan tư  vấn về Vấn đề kinh tế, tài chính trong Liên bang Đông Dương. 
Trong khu vực nông thôn, thực dân Pháp tiến hành "cải lương hương chính nhằm từng bước can thiệp trực tiếp vào công việc nội bộ của làng xã, loại bỏ  dần tính chất tự trị của nó. Trên nguyên tắc, công cuộc cải lương hương chính vẫn chấp nhận cơ chế quản lý làng xã cổ truyền, nhưng trên một chừng mực nào đó thực dân Pháp đã đạt được mục tiêu can thiệp trực tiếp vào công việc làng xã bằng cách kiểm soát nhân sự, tài chính của bộ máy làng xã. 
Tóm lại, chính sách của thực dân Pháp trong thế kỷ 20 là nới rộng một số Quyền lực chính trị cho các tầng lớp trên, tạo ra mảnh đất tốt cho chủ nghĩa Pháp-Việt đề huề tạo sự ổn định chính trị để thu hút vốn đầu tư vào Đông Dương nhằm thực hiện có hiệu quả chương trình khai thác thuộc địa lần thứ hai 2.
2. Tình hình kinh tế 
Là nước thắng trận, nhưng Pháp ra khỏi Chiến tranh thế giới thứ nhất với 'những tổn thất lớn trên nhiều lĩnh vực. Những vùng giàu có nhất nước Pháp, đặc biệt  các vùng công nghiệp phát triển, bị tàn phá nặng nề; nhiều ngành công nghiệp bị đình trệ. Đồng thời, nước Pháp trở thành con nợ lớn. Tổng số nợ của 'nước Pháp đến năm 1920 đã lên tới 300 tỷ phăng.
 Tình hình trên đã thôi thúc chính quyền Pháp tìm biện pháp vừa thúc đẩy nhanh  nền sản xuất trong nước, đồng thời đẩy mạnh khai thác thuộc địa, nhất là 'Đông Dương, nhằm nhanh chóng hàn gắn vết thương chiến tranh,'phục hồi Nền kinh tế và khôi phục vị thế chính trị của nước Pháp trên trường quốc tế. 
" Về mục  tiêu, giống như cuộc khai thác thuộc địa lần trước, cuộc khai thác thuộc lần này vẫn theo đuổi một ý đồ nham hiểm : bòn rút thuộc địa để làm giàu cho 'chính quốc nhưng không cho thuộc địa có cơ hội cạnh tranh với chính quốc.
 Về thời gian, cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai được bắt đầu từ sau khi kết thức Chiến tranh thế giới thứ nhất và chấm dứt trước cuộc tổng khủng hoảng 'kinh tế thế giới , tức là từ năm 1919 đến năm 1929. 
Vế cơ cấu đầu tư, đã có sự thay đổi căn bản, nếu như trước Chiến tranh thế giới lần thứ nhất chủ yếu là vốn của tư bản nhà nước, thì trong cuộc khai thác thuộc địa này vốn đầu tư vủa tư bản tư nhân đứng vị trí hàng đầu.
 Về cường độ, cuộc khai thác thác thuộc địa lần thứ hai diễn ra với một cường độ mạnh. Chỉ tính riêng trong 6 năm (1924-1929), tổng số vốn đầu tư của tư bản Pháp vào Đông Dương đã tăng gấp 6 lần so với 20 năm trước chiến tranh. 
 Về các lĩnh vực đầu tư, có sự thay đổi vị trí rất lớn. Nếu như trong khai thác thuộc địa thứ nhất, khai khoáng chiếm vị trí hàng đầu, thì trong cuộc khai thác thuộc địa lần này vị trí đó thuộc về nông nghiệp. 
 Dưới tác động của công cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai, cơ cấu và trình độ phát triển của nền kinh tế Việt Nam tiếp tục có những bước chuyển biến theo hướng hiện đại
 Nông nghiệp là ngành được thực dân Pháp chủ trương đầu tư !ớn nhất. Năm 1924, số vốn đầu tư vào nông nghiệp là 52 triệu phăng, thì năm 1927 đã lên tới 400 triệu phăng, chủ yếu chảy vào khu vực trồng và khai thác cao su. Với số vốn đó và sự trợ lực của chính sách ăn cướp ruộng đất, hàng trăm đồn điền, có những đồn điền rộng tới vài nghìn ha, đã xuất hiện. Các chủ đồn điền người Pháp và người Việt khai thác triệt để phương thức canh tác và bóc lột kiểu phong kiến và tiền tư sản.
Trong nông nghiệp, sự chuyển biến mạnh mẽ nhất là sự chuyển đổi trong cơ cấu cây trồng. Ngoài những đồn điền trồng lúa đã xuất hiện những đồn điền trồng cao su, trồng chè, trồng cà phê, trồng hạt tiêu..., nghĩa là các chủ đầu tư đã khai thác thế mạnh của miền đấtt nhiệt đới. Trong kinh doanh cao su đã hình thành 3 tập đoàn lớn : Công ty đất đỏ, Công ty trồng cây nhiệt đới  và Công ty Mitsơlanh. Sản lượng mủ cao su ngày một tăng. Năm 1929 đã xuất kho 10.00 tấn mủ cao su. 
Dù không cân đi và què quặt nhưng đã xuất hiện một nền công nghiệp với hai bộ phận công nghiệp nặng  và công nghiệp nhẹ. Vào những năm 1920, địa hạt này được tăng cường theo hai hướng chính : I) mở rộng về quy mô, về cường độ các xí nghiệp, nhà máy đã có từ trước; 2) xây dựng thêm những xí nghiệp những công ty mới. Như vậy, so với thời kỳ trước, ngành công nghiệp đã có bước tiến về chất. Chẳng hạn, trong khai khoáng, đi đôi với việc thành lập các công ty mới như Công ty than Hạ Long, Công ty than và mỏ kim khí Đông Dương... đã xuất hiện một số cơ sở chế biến quặng, đúc kim, thiếc  ở Quảng Yên, Hải Phòng, Cao Bằng - những loại hình công nghiệp còn vắng bóng trước chiến tranh. Cùng với sự điều chỉnh trong khu vực công nghiệp nặng, khu vực công nghiệp nhẹ cũng trở nên sôi động hơn, không chỉ tăng số lượng các nhà máy chế biến nông sản tại chỗ, mà còn được nâng cấp, mở rộng quy mô sản xuất .Nhà máy dệt Nam Định được xây dựng từ những năm cuối thế kỷ XIX nay được mở rộng, nâng cấp để trở thành một trung tâm dệt nổi tiếng trên toàn liên bang với một tổ hợp nhà máy khép kín từ khâu đầu đến khâu cuối. 
Giao thông vận tải, một thành tố trong cơ sở hạ tầng, đã được thực dân Pháp chủ yếu đầu tư xây dựng ngay từ đầu, nay được tiếp tục đầu tư vốn và kỹ thuật ( hoàn tất những công trình đang dang dở và nâng cấp một số phương tiện giao thông vận tải mới. Trên tuyến đường sắt xuyên Việt, thực dân Pháp tiếp tục xây dựng các đoạn Vinh - Đông Hà, Đồng Đăng - Na Sầm(l) ; đến năm 1931 đã xây dựng được 2389 km đường sắt trên đất Việt Nam. Đường bộ tiếp tục được xây dựng, nhiều con đường quốc lộ và liên tỉnh đã được rải đá cấp phối và tráng nhựa. Đến năm 1930, Pháp đã mở được 15.000 km đường bộ, trong đó 1 khoảng 2.000 km đường rải nhựa. Nếu như đường sắt, đường bộ có vị trí quan trọng trong kinh tế đối nội, thì đường thủy đóng vai trò chủ đạo trong kinh tế đối ngoại. Nó là phương tiện giao thông duy nhất lúc đó nối nước ta với các nước bên ngoài. Vì thế, cùng với quá trình hiện đại hóa các hải cảng đã có như cảng Sài Gòn, Hải Phòng, Đà Nẵng, Pháp cho xây dựng các hải cảng mới như Hòn Gai, Bến Thủy... Mạng lưới vận tải đường sông  vùng châu thổ sông Hồng và sông Cửu Long cũng được khai thác triệt để.
 Thương nghiệp gồm ngoại thương và nội thương cũng có những bước tiến mới. Xuất hiện các chợ lớn như chợ Bến Thành (Sài Gòn), chợ Đông Ba (Huế), chợ Đồng Xuân (Hà Nội). Ngoại thương là lĩnh vực buôn bán mà Pháp độc quyền. Thực dân Pháp dựng hàng rào thuế quan để bảo hộ hàng hóa chính quốc bằng cách đánh thuế cao hàng hóa nước ngoài, đặc biệt là hàng hóa Trung Quốc và Nhật Bản đã hạn chế đến mức tối đa hàng ha của nước ngoài nhập vào Đông Dương, tạo điều kiện tốt nhất cho hàng hóa Pháp tràn ngập thị trường Việt Nam. Trước chiến tranh, thị phần hàng hóa Pháp  ở Đông Dương chiếm 37%, cuối những năm 1920 đã lên tới 63%. Đặc trưng của nền thương mại thuộc địa được phản ánh rõ nét trong cơ cấu xuất  nhập. Xuất chủ yếu là những mặt hàng nguyên liệu, nông sản phẩm ; Nhập chủ yếu là những mặt hàng công nghiệp, kỹ thuật, những mặt hàng tiêu dùng cao cấp từ Pháp. 
 Bao trùm và chi phi toàn bộ đời sống kinh tế Đông Dương là hệ thống ngân hàng, đứng đầu là Ngân hàng Đông Dương. Ngân hàng Đông Dương, ngoài chức năng được quyền phát hành giấy bạc, đã chỉ đạo các ngân hàng hàng  tỉnh ( 19 Nông phố Ngân hàng) trong việc cho vay lãi , góp vốn thành lập các công ty, các đồn điền, các nhà máy. Như vậy, dưới tác động của cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai, nền kình tế Việt Nam tiếp tục chuyển biến sâu sắc thêm theo hướng đa ngành, đa lĩnh vực. Về hình thức  đó là một cơ cấu kinh tế thuộc địa, đã mang sắc thái hiện đại nhưng thực đây chính là một cơ cấu kinh tế thuộc địa mất cân đối , què quặt  được biểu hiện rõ nét ở tỷ lệ giữa khu vực công nghiệp và nông nghiệp, giữa khu vực công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ và giữa các vùng và các miền của đất  nước. 
 3. Tình hình xã hội 
Trên phương diện xã hội, dưới tác động của cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai, xã hội Việt Nam tiếp tục có sự phân hóa giai cấp sâu sắc và cùng với nó là sự xuất hiện một hệ thống thành phố kiểu phương Tây.
a) Sự phân hoá giai cấp
Giai cấp địa chủ : Nét đặc trưng của xã hội thuộc địa là sự cấu kết chặt chẽ giữa thực dân và giai cấp địa chủ  phong kiến bản xứ. Giai cấp địa chủ vì thế, không những không bị thu hẹp lại, mà trái lại được phát triển đủ mạnh để có thể trở thành nền tảng xã hội của chế độ thuộc địa. Thế lực này được đo bằng số ruộng đất tập trung trong tay họ. Ở Nam Kỳ, mức độ tập trung ruộng đất cao hơn  Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Trong giai cấp địa chủ đã xuất hiện sự phân tầng rõ rệt : địa chủ nhỏ, địa chủ vừa và đại địa chủ. Nam Kỳ là nơi tập trung nhiều đại địa chủ, có 2.449 đại địa chủ sở hữu từ 100 - 500 ha và 244 đại địa chủ sở hữu trên 500 ha. Nhìn chung, giai cấp địa chủ thời kỳ này chiếm khoảng 7% cư dân nông thôn, nhưng đã nắm trong tay một nửa diện tích canh tác. Đến năm 1939,  Việt Nam có khoảng 6.500 địa chủ sở hữu trên 50 ha ruộng đất, trong đó Nam Kỳ có 6.200, Bắc Kỳ có 200 và Trung Kỳ có 100 người. Giai cấp “ngồi mát ăn bát vàng" này đã tách khỏi quá trình sản xuất, sống bằng việc phát canh thu tô (tô tiền, tô hiện vật và tô lao dịch). Do sự nâng đỡ của chính quyền thực dân, giai cấp địa chủ chiếm đại đa số trong cơ cấu chính quyền làng xã (Hội đồng kỳ mục, Hội đồng tộc biểu, người đứng đầu các xã, tổng và hàng thôn). Đồng thời, giai cấp này còn có đại biểu của mình  ở các cấp chính quyền bên trên như các Viện Dân biểu, Hội đồng quản hạt ... Rõ ràng, giai cấp địa chủ trở thành chỗ dựa đáng tin cậy của chính quyền thực dân.
 Giai cấp nông dân là thành phần chiếm tuyệt đại đa số (khoảng 90% trong xã hội Việt Nam. Trong quá trình sản xuất, dưới tác động của chương trình khai thác thuộc địa, giai cấp này đã chuyến biến sâu sắc và có sự phân tầng rõ rệt : phú nông, trung nông, bần nông và cố nông.
 Phú nông là tầng lớp khá giả nhất trong giai cấp nông dân, chiếm hữu một số ruộng đất tương đối khá nhưng chưa đủ để trở thành địa chủ, cũng tham gia bóc lột bằng thuê nhân công, tuy vẫn trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất. 
Trung nông là tầng lớp có đủ ruộng đất và công cụ sản xuất để tiến hành sản xuất nuôi sống gia đình mình; họ không bán sức lao động và cũng không có khả năng tham gia bóc lột. 
Bần nông là tầng lớp thiếu ruộng đất canh tác, thiếu nông cụ. Để nuôi sống gia đình mình họ phải lĩnh canh ruộng đất, thuê mướn nông cụ sản xuất và tiền vốn. 
Cố nông là tầng lớp "không tấc đất cắm dùi" nghèo khổ nhất bần cùng nhất trong giai cấp nông dân. Nguồn sống chủ yếu của họ là lĩnh canh ruộng đất, đi làm thuê, đi ở cho nhà giàu. 
Giai cấp nông dân là giai cấp bị bóc lột và áp bức nặng nề nhất bi thuế khóa và thu phen tạp dịch. Cuộc sống của họ hết sức bấp bênh. Một bộ phận trong số họ bị bần cùng hóa. Đề duy trì sự tồn tại của gia đình, họ phải ra thành phố, hầm mỏ để kiếm công ăn việc làm. Một số người may mắn tìm được nơi bán sức lao động, trở thành công nhân, số khác ít may mắn hơn.. quay trở về nông thôn, cam chịu cuộc sống cùng quẫn, bế tắc.
Giai công nhân Việt Nam ngày càng trở nên đông đảo. Đến năm 1929, chỉ tính riêng công nhân trong các doanh nghiệp của người Pháp đã là  221.050 người. Ngoài ra, có khoảng vài vạn công nhân lam việc trong các doanh nghiệp của tư sản Việt Nam và tư sản ngoại kiều, chưa kể số công nhân làm theo mùa, theo thời vụ. Về số lượng, giai cấp công nhân Việt Nam chiếm trên 1 % dân số .Tỷ lệ đó là nhỏ bé, nhưng  một nước thuộc địa con số đó cũng rất đáng kể.
Nhìn trên tổng thể, công nhân được phân bố trên 2 vùng rõ rệt tuỳ theo điều kiện tự nhiên : miền Bắc tập trung công nhân công nghiệp, miền Nam tập trung công nhân nông nghiệp. Đại bộ phận công nhân công nghiệp tập trung ở Hòn Gai, Hải Phòng, Hà Nội , Nam Định, Vinh, Sài Gòn, Chợ Lớn. 
 Điều kiện sống và làm việc của công nhân rất cực khổ. Họ phải làm việc trung bình từ 10 giờ đến 14 giờ ngày với đồng lương rẻ mạt, thườ­ng xuyên bị cúp phạp và bị đối xử bất nhân. Trước khi họ trở thành công nhân, họ đã là người dân một nước nô lệ. Vì thế, trong họ đã có sẵn mối thù dân tộc. Khi họ trở thành công nhân, làm thuê cho một ông chủ nào đó, bị giới chủ bóc lột, áp bức nặng nề, họ mang thêm một mối thù thứ hai – mối thù giai cấp. Mối thù dân tộc có trước thôi thúc mối thù giai cấp chín sớm. Do vậy, giai cấp công nhân Việt Nam sớm giác ngộ ý thức giai cấp và nhanh chóng vươn lên nắm lấy ngọn cờ giải phóng dân tộc.
 Giai cấp tiểu tư sản
 Cùng với sự gia tăng của cuộc khai thác thuộc địa, sự xuất hiện hệ thống thành thị kiểu phương Tây và nền giáo dục Pháp-Việt phát triển, giai cấp tiểu tư sản ngày càng trở nên đông đảo. Nó được kết hợp một cách lỏng lẻo bởi ba bộ phận: trí thứ, tiểu thương và thợ thủ công. Điểm chung của họ là thi dân, sở hữu một ít tư liệu sản xuất (vốn, chất xám). 
Trí thức (trong đó có học sinh, sinh viên) là bộ phận quan trọng nhất của giai cấp tiểu tư sản. Đến năn 1929, đội ngũ trí thức đã lên tới gần 40 vạn người (12.000 giáo viên, 335.545 học sinh, 23.000 viên chức và hàng trăm sinh viên các trườ­ng đại học, cao đẳng và dạy nghề). 
Tiểu thương: Biên độ của đội ngũ này khá rộng, từ người buôn thúng bán mẹt đến những người có cửa hàng, cửa hiệu nhưng vốn liếng (doanh số) chưa đạt tới ngưỡng một nhà tư sản. Đội ngũ những người buôn bán nhỏ có đóng thuế môn bài thường xuyên là 130.000 người.
Thợ thủ công: Vào giữa những năm 30 của thế kỷ này, có khoảng 21,6 thợ thủ công chuyên nghiệp, đông đảo nhất là  Bắc Kỳ. So với hai bộ phận trên, bộ phận này có đời sống bấp bênh nhất bởi với sự xuất hiện các doanh nghiệp lớn đe doạ thủ công nghiệp phá sản.
 Giai cấp tư sản
 Tư sản Việt Nam,, sau chiến tranh, gặp những điều kiện thuận lợi nên hoạt động kinh doanh của họ càng trở nên sôi nổi hơn, đa dạng hơn. Họ kinh doanh trong hầu hết các lĩnh vực kinh tế, từ xay xát, nhuộm. dệt, in ấn, vận tải đến sản xuất nước mắm, đường, xà phòng, sơn, đồ gốm v.v... Một số đã có trong tay một sản nghiệp lớn như mỏ, đồn điền, công ty vận tải sông biển, các công ty thương mại... Cuối những năm 1920 tư sản Việt Nam đã gia tăng về số lượng, đã đạt từ con số 20.000 người, chiếm khoảng 0,1% dân số cả nước. Tư sản Việt Nam đã từ một tầng lớp trở thành một giai cấp xã hội thực sự sau Chiến tranh thế giới thứ nhất. Do điều kiện kinh doanh, giai cấp tư sản Việt Nam tự phân thành hai bộ phận : tư sản mại bản và tư sản dân tộc.
 Tư sản mại bản là một bộ phận những nhà đại lý cho tư bản nước ngoài, những nhà thầu khoán và những tư sản hùn vốn kinh doanh với tư sản Pháp và những nhà doanh nghiệp có quan hệ buôn bán với nước ngoài. Vì lợi ích kinh tế của bộ phận này gắn chặt với lợi ích kinh tế của tư bản thực dân.
 Ngoài bộ phận trên, phần lớn các nhà tư sản Việt Nam đều là tư  sản dân tộc. Họ có mặt trong hầu hết các lĩnh vực kinh tế, đặc biệt trong thương nghiệp. Nhiều xí nghiệp kinh doanh của họ được mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư về kỹ thuật như xưởng sản xuất sơn của Nguyễn Sơn Hà, công ty vận tải sông biển của Bạch Thái Bưởi, xưởng dệt của Lê Phát Vĩnh. Nhiều đồn điền  ở Nam Kỳ rộng hàng nghìn mẫu thu hút hàng trăm công nhân. Sau chiến tranh, xuất hiện những cơ sở kinh doanh mới như Nhà máy gạch Hưng Ký  ở Đáp Cầu (Bắc Ninh), xí nghiệp dệt Vĩnh An ở Huế. Lợi ích kinh tế của bộ phận tư sản dân tộc không đồng nhất với lợi ích kinh tế của chính quyền thực dân. Họ bị chèn ép từ nhiều phía, từ tư sản Pháp đến các nhà tư sản ngoại kiều. Vì thế, để tồn tại và phát triển, bộ phận này đã cố kết với nhau trong kinh doanh và do đó ít nhiều họ có tinh thần dân tộc.
 Nhìn chung, sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, giai cấp tư sản Việt Nam lớn mạnh và trưởng thành. Đại diện cho thế lực kinh tế của giai cấp xã hội đang lên này là những nhà doanh nghiệp sáng giá như Trương Văn Bền, Bạch Thái Bưởi;, Nguyễn Sơn Hà, Lê Phát Vĩnh.
Dẫu vậy, giai cấp tư sản Việt Nam còn rất ít về số lượng cũng như vốn liếng. Tổng số vốn kinh doanh của họ chỉ bằng khoảng 5% số vốn của tư bản nước ngoài. Tư sản Việt Nam chủ yếu kinh doanh trong thương nghiệp, ít kinh doanh trong khu vực sản xuất. Trên thương trường, giai cấp tư sản Việt Nam lại đụng độ không cân sức với hai đối thủ : tư sản Pháp và tư sản Hoa kiều. 
b) Sự hình thành hệ thống đô thị kiểu phương Tây
Quá trình hình thành hệ thống thành thị kiểu phương Tây ở nước ta gắn chặt với công cuc khai thác thuộc địa lần thứ nhất, được đẩy mạnh và hoàn thiện trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ haiTrong những năm 20 và 30 của thế kỷ này, một hệ thống thành thị kiểu phương Tây đã hình thành với 3 cấp độ: Thành phố cấp 1 : (Sài Gòn, Hà Nội, Hải Phòng) ; thành phố cấp 2: (Hải Dương, Nam Định, Vinh, Đà Nẵng, Chợ Lớn) ; thành phố cấp 3 (những thị xã trực thuộc tỉnh như Bắc Ninh, Hưng Yên, Đồng Hới...) và dưới đó là hàng trăm thị trấn và thị tứ. Cùng với sự lớn mạnh của các đô thị, số thị dân tăng nhanh. Năm 1928, thành phố  Hà Nội đã có 130.000 dân, Huế - 41.600 dân, Sài Gòn - 125.000 dân, Cho đến những năm 1930, dân số thành phố đã chiếm 8% - 10% dân số cả nước. 
Trong quá trình sinh tồn, thị dân đã tạo ra một lối sống riêng, một phong tục tập quán riêng, vừa kế thừa những giá trị truyền thống, nhưng đồng thời cũng có những nét khác với lối sống của nông dân. Một hệ thống thành thị phát triển, thị dân trở nên đông đúc là những tiền đề, những điều kiện để tiếp nhận văn hóa phương Tây. Từ đó, trong các dạng thức sinh hoạt chính trị và văn hóa chúng ta mới có các đảng phái chính trị, các nhà xuất bản, các dòng báo chí, các thể loại văn học nghệ thuật mới như kịch nói, điện ảnh .. xuất hiện những quan niệm mới về bố trí không gian sống và nghỉ ngơi trong kiến trúc vv... Tóm lại, với sự hình thành và hoàn thiện một hệ thống thành thị kiểu phương Tây, trong xã hội Việt Nam đã xuất hiện nền văn minh đô thị, một nền văn minh tiên tiến thúc đẩy xã hội Việt Nam vươn lới.
 4. Tình hình văn hóa tư  tưởng 
Cùng với sự đầu tư khai thác thuộc địa gia tăng sau chiến tranh, đời sống kinh tế và xã hội nước ta có những chuyển biến mạnh mẽ. Một nền kinh tế với kiến trúc đa ngành đã xuất hiện. Một hệ thống đô thị đã hình thành và phát triển. Một nền giáo dục Pháp – Việt, sau nhiều lần cải cách và tìm kiếm những mô hình hợp lý, đã phát huy tác dụng. Các cơ sở in ấn, xuất bản đã xuất hiện ở các thành phố lớn. Hàng loạt những tờ báo, tạp chí chữ Pháp và Quốc ngữ đã ra đời. Đó chính là những tiền đề để tiếp nhận những trào lưu tư tưởng mới, những thành tựu khoa học - kỹ thuật, những loại hình vãn học – nghệ thuật phương Tây tràn vào. Chính vì vậy, thập kỷ 20 trong lịch sử nước ta được xem như là giai đoạn giao thoa, đan xen giữa các giá trị văn hoá truyền thống và văn hoá ngoại nhập, giữa nền văn hoá thực dân, nền văn hoá chính thống và nền văn hoá mới, văn hoá tiến bộ, cách mạng định hìnhĐó chính là cuộc chiến đấu không tuyên bố trên mặt trận văn hóa  tư tưởng. Chính quyền thực dân sớm có ý thức sử dụng văn hoá như một thứ vũ khí được quảng bá cho tư tưởng "Pháp – Việt đề huề", "Pháp - Nam hợp tác", đang tạo ra một bầu không khí chính trị ổn định có lợi cho việc gọi vốn đầu tư vào Đông Dương. Nhằm mục đích đó Pháp đã cho phép Phạm Quỳnh ra tờ Nam Phong tạp chí 1917) và cho lập Hội Khai trí Tiến Đức (1919) để tập hợp lực lượng trong giới thượng lưu. Trên các phương tiện thông tin đại chúng lúc đó xuất hiện những bài viết của các học giả thân Pháp tán dương chủ trương "Pháp-việt đề huề", trình bày các chủ thuyết cai trị như thuyết "Trực trị" và thuyết "Quân chủ lập hiến". Cùng với việc trên, báo chí thực dân đã bắt đầu tung ra những bài viết bôi nhọ chủ nghĩa cộng sản, lãnh tụ Lê Nin và Cách mạng tháng Mười Nga. Nói một cách khác, trên bình diện tư tưởng, báo chí thực dân đã tiến hành chủ nghĩa chống cộng khi ở xứ này chưa có chủ nghĩa cộng sản, thậm chí là mầm mống.
 Đối lập với nền văn hoá thực dân, văn hoá nô dịch đó là nền văn hoá mới tiến bộ, cách mạng. Khởi đầu là dòng báo chí tiến bộ với tờ báo La Cloche fêlée (Chuông rạn) và L’Annam (Nước Nam) của Nguyễn An Ninh và Phan Văn Trường. Tiếp đó, xuất hiện các Thư xã (Nhà xuất bản)  Sài Gòn, Huế, Hà Nội; nhờ đó mà các tác phẩm văn học mới được dân thành thị đón nhận. Với sự xuất hiện tác phẩm Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách (1925), lần đầu tiên trên văn đàn nước ta, lối kết cấu theo chương hồi được thay bằng lối kết cấu theo quy định luật tâm lý, lễ giáo phong kiến bị đả kích, tự do cá nhân được đề cao. Năm 1922 vở kịch nói đầu tiên Chén thuốc độc của Vũ Đình Long được công diễn thành công tại Nhà hát lớn Hà Nội. Tiếp đến, Nguyễn Hữu Kim với Bạn và vợ, Vi Huyền Đắc với Hoàng Mộng Điệp, Nam Xương với Chàng Ngốc(3). Có thể nói các tác phẩm văn học sau chiến tranh đã hướng tới việc phê phán xã hội đương thời bằng cách bóc trần cảnh lầm than, tủi nhục của những người lao động, mô tả những xung đột bi kịch giữa lễ giáo phong kiến đã lỗi thời và tự do cá nhân tư sản ; đồng thời công khai bóc lộ tình cảm yêu nước thương nòi. Tất cả những điều đó là sư chuẩn bị cho nền văn học hiện thực phê phán xuất hiện.
II) Bước phát triển mới của phong trào cách mạng Việt Nam sau chiến tranh

1 phong trào công nhân

Phong trào công nhân giai đoạn này đã có thêm những điều kiện mới. Về số lượng, đội ngũ công nhân được bổ sung thêm hơn 12 vạn người. Về chất lượng, sau chiến tranh nhiều thủy thủ, línhthợ được hồi hương; trong hành trang nghèo khó của mình mang về nước có cả những hiểu biết mới, tư tưởng mới và cả những kinh nghiệm tổ chức và đấu tranh của giai cấp công nhân châu Âu.
Phong trào công nhân giai đoạn này đã có thêm những điều kiện mới. Về số lượng, đội ngũ công nhân được bổ sung thêm hơn 12 vạn người. Về chất lượng, sau chiến tranh nhiều thủy thủ, lính thợ được hồi hương; trong hành trang nghèo khó của mình mang về nước có cả những hiểu biết mới, tư tưởng mới và cả những kinh nghiệm tổ chức và đấu tranh của giai cấp công nhân châu Âu. Trong khi đó, cuộc sống của họ càng trở nên cùng quẫn. Những điều kiện đó đã thôi thúc họ đứng dậy đấu tranh. Những hình thức đấu tranh thấp như: bỏ việc, phá giao kèo vẫn được tiếp tục, nhưng công nhân cũng đã sử dụng thường xuyên hơn hình thức đấu tranh đặc thù là bãi công. Theo thống kê của chính quyền thực dân, từ 1920-1925 đã nổ ra 25 cuộc bãi công, tiêu biểu có những sự kiện sau :
- Năm 1919 nổ ra cuộc bãi công của thủy thủ tàu Sácnô đang đậu ở cảng Hải Phòng đòi tăng lương và phản đối việc đưa lính Việt Nam sang đàn áp nhân dân Xyri.
- Năm 1920, hơn 200 thủy thủ của 5 chiếc tàu Pháp đang buông neo ở cảng Sài Gòn đã bãi công đòi phụ cấp đắt đỏ.
- Năm 1921 , Liên đoàn công nhân tàu biển Viễn Đông được thành lập và tổ chức được nhiều cơ sở ở Ma Cao, Thượng Hải (Trung Quốc). Công nhân Việt Nam làm việc trên các hãng tàu của Pháp đã gia nhập tổ chức này. Họ đã góp phần đưa đón cán bộ, tài liệu cách mạng từ nước ngoài về nước.
Từ năm 1922, phong trào công nhân có bước phát triển mới. Trước hết là cuộc đấu tranh của 600 công nhân nhuộm Sài Gòn - Chợ Lớn. Nét mới ở cuộc đấu tranh này là sự tập hợp đông đảo thợ nhuộm của nhiều cơ sở nhuộm trên đất Sài Gòn - Chợ Lớn. Vì thế, Nguyễn Ái Quốc đã đánh giá cuộc bãi công đó như là "dấu hiệu của thời đại mới". Tiếp đó, 3 cuộc đấu tranh của công nhân 3 nhà máy dệt trên 3 địa bàn khác nhau là Hải Dương, Hà Nội và Nam Định, ở những thời điểm khác nhau, nhưng cùng theo đuổi một mục đích : đòi tống cổ tên đốc công tàn ác. Tiêu biểu nhất cho phong trào công nhân giai đoạn này là cuộc bãi công của 1000 công nhân xưởng Ba Son (Sài Gòn) tháng 8-1925. Cuộc bãi công này gắn liền với sự tổ chức và lãnh đạo của Công hội do Tôn Đức Thắng thành lập. Mục đích cuộc bãi công này của công nhân Ba Son là làm chậm việc sửa chữa chiếc tàu Misơlê (Michelet) mà thực dân Pháp dùng chở lính sang đàn áp phong trào cách mạng Trung Quốc. Ngày 4-8-1925, cuộc bãi công nổ ra với yêu sách "tăng 20% lương, đưa số thợ bị đuổi trở lại làm việc và giữ lệ nghỉ 30 phút vào ngày lãnh lương". Để đảm bảo thắng lợi, ban lãnh đạo Công hội đã vận động công nhân, viên chức trong thành phố ủng hộ vật chất và tinh thần cho công nhân Ba Son. Sau 8 ngày đấu tranh, cuộc bãi công đã giành được thắng lợi. Ngày 12-8 công nhân trở lại làm việc, nhưng tiếp lục lãn công làm chậm việc sửa chữa tàu Misơlê đến tháng 1 1-1925 mới xong.
Như vậy, cuộc bãi công Ba Son tháng 8-1925 là cuộc đấu tranh đầu tiên có tổ chức và lãnh đạo. Hơn thế nữa, cuộc đấu tranh không chỉ nhằm mục tiêu kinh tế mà còn nhằm vào mục đích chính trị thể hiện tình đoàn kết vô sản quốc tế của công nhân Việt Nam. Với tính chất đó, cuộc bãi công Ba Son vạch một mốc lớn trong phong trào công nhân Việt Nam - giai cấp công nhân Việt Nam bắt đầu đi vào đấu tranh có tổ chức và mục đích chính trị rõ ràng.

2. hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc

Nguyễn Ái Quốc (Nguyễn Sinh Cung, Nguyễn Tất Thành) sinh ngày " 19-5-1890 làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Sinh ra trong một gia đình nhà Nho yêu nước, lớn lên trên mảnh đất có truyền thống bất khuất, từ nhỏ Nguyễn Ái Quốc( đã nuôi chí đuổi giặc Pháp, giải phóng đồng bào.
Nguyễn Ái Quốc (Nguyễn Sinh Cung, Nguyễn Tất Thành) sinh ngày " 19-5-1890 làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
Sinh ra trong một gia đình nhà Nho yêu nước, lớn lên trên mảnh đất có truyền thống bất khuất, từ nhỏ Nguyễn Ái Quốc( đã nuôi chí đuổi giặc Pháp, giải phóng đồng bào. Trăn trở với vận nước, sự nghiệp cứu nước không thành của các " bậc tiền bối. Ngày 5-6-191 1 Nguyễn Ái Quốc (lúc đó lấy tên là Nguyễn Tất Thành) quyết chí ra nước ngoài tìm đường cứu nước. Người đã trải qua nhiều nghề khác nhau để được đến nhiều miền khác nhau trên thế giới khảo nghiệm và học tập. Những chuyến đi đó giúp Người rút ra một kết luận quan trọng: Trên thế giới này, ở đâu bọn đế quốc thực dân đều độc ác, ở đâu những người lao động cũng đều bị bóc lột, áp bức dã man; trên thế giới này con người có nhiều màu da khác nhau, nhưng chung quy chỉ có hai hạng người : hạng người bị bóc lột và hạng người đi bóc lột.
Cuối năm 1917, Người từ nước Anh trở lại nước Pháp, chọn Pari làm điểm dừng chân hoạt động. Năm 1919, Người gia nhập Đảng Xã hội Pháp, một chính đảng tiến bộ nhất lúc đó Pháp. Tháng 6-1919, nhân các nước thắng trận họp Hội nghị Vecxay (Versailles), thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, Người gửi tới Hội nghị Bản yêu sánh của nhân dân Việt Nam (ký tên " Nguyễn Ái Quốc), gồm 8 điểm đòi chính phủ Pháp thực hiện quyền tự do, dân chủ, bình đẳng cho dân tộc Việt Nam. Tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc đã đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I. Lênin đăng trên báo L’Humanité (Nhân đạo) của Đảng Xã hội Pháp. Qua Luận cương, Người đã tìm thấy con đường cứu nước giải phóng dân tộc. Cũng từ đó, Người hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba. Vì thế, tại Đại hội lần thứ 18 Đảng Xã hội Pháp họp ở thành phố Tua cuối tháng 12-1920, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành thành lập Đảng Cộng sản Pháp và gia nhập Quốc tế III. Như vậy, Nguyễn Ái Quốc từ chủ nghĩa cộng sản, qua lao động, học tập và hoạt động thực tiễn, đã đến với chủ nghĩa cộng sản và Người tìm thấy trong đó con đường giải phóng các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ. Sau khi tìm được con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc, từ năm 1921 Nguyễn Ái Quốc tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin về nước, chuẩn bị tiền đề chính trị, tư tưởng và tổ chức để tiến tới thành lập một Đảng Cộng sản Việt Nam. Tháng 7- 1921 , Nguyễn Ái Quốc cùng với một số nhà cách mạng các thuộc địa của Pháp thành lập Hội Liên hiệp thuộc địa và xuất bản tờ báo Le Paria (Người cùng khổ) làm cơ quan ngôn luận của Hội. Người cùng khổ ra số đầu tiên vào ngày 1-4-1922. Với tờ báo này, Người là chủ bút, biên tập viên, người viết bài. Cũng trong năm 1922, Người viết vở kịch Con Rồng Tre, hướng đòn đả kích vào Khải Định nhân chuyến đi Pháp của ông vua này. Tiếp đó, Người xuất bản cuốn sách nổi tiếng Bản án chế độ thực dân Pháp (năm 1925).
Tháng 6-1923, Nguyễn Ái Quốc bí mật đi Matxcơva (Liên Xô). Mặc dù thời gian lưu lại không lâu lắm (16 tháng) nhưng do thay đổi môi trường hoạt động nên Nguyễn Ái Quốc đã làm việc sôi nổi, năng nổ và có hiệu quả. Tháng 10-1923, Người tham dự Hội nghị Quốc tế Nông dân; tháng 7-1924 cùng với Đoàn đại biểu cộng sản Pháp tham dự Đại hội V Quốc tế Cộng sản. Tại các đại hội đó, Người đã được những tham luận quan trọng về phong trào cách mạng thuộc địa. Người còn viết nhiều bài cho tạp chí Thư tín quốc tế của Quốc tế Cộng sản, cho báo Sự thật của Đảng Cộng sản Liên Xô và đã xuất bản hai cuốn sách : Trung Quốc và Thanh Niên Trung Quốc và Chủng tộc da đen. Thời gian hoạt động ở Matxcơva là thời gian mà Nguyễn Ái Quốc hoàn thiện thế giới quan và nhân sinh quan cách mạng của mình, cũng là thời kỳ phác thảo những nét lớn đường lối chiến lược của cách mạng giải phóng dân tộc. Những tác phẩm của Người công bố tại Pháp và Liên Xô chứa đựng những tư tưởng chính trị lớn sau đây:
1 ) Xác định một cách chính xác kẻ thù chính của cách mạng giải phóng dân tộc là đế quốc, thực dân và giai cấp địa chủ phong kiến bản xứ.
2) Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi vào quỹ đạo cách mạng vô sản.
3) Cách mạng vô sản chính quốc và cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa có mối quan hệ qua lại, nhưng không phụ thuộc vào nhau. Cách mạng giải phóng dân tộc có thể bùng nổ và thắng lợi trước cách mạng vô sản chính quốc.
4) Ở các nước thuộc địa giai cấp công nhân chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong cư dân, song vai trò lãnh đạo thuộc về giai cấp công nhân Đảng là một vấn đề chiến lược to lớn trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Người còn khẳng định rằng giai cấp công nhân muốn thực hiện được sứ mệnh đó thì phải thu phục cho được giai cấp nông dân, một giai cấp nghèo khổ nhất chiếm 90 % dân số, đi theo mình, hợp thành đội quân chủ lực cách mạng.
Những tác phẩm của Nguyễn Ái Quốc cùng với những tài liệu macxit khác theo những đường dây bí mật được đưa về nước, đến với các tầng lớp người lao động, thổi bùng lên luồng gió mới trong phong trào dân tộc, làm cho nó nhanh chóng chuyển mình theo kịp xu thế của thời đại – cũng từ đó, những người yêu nước Việt Nam bắt đầu hướng tới Nguyễn Ái Quốc, xem Người như vị cứu tinh của nước Việt Nam đang đau khổ.

III) Phong trào cách mạng dân tộc ở Việt Nam trong những năm 1925 - 1929

1. Khởi nghĩa Yên Bái
Khởi nghĩa Yên BáiTừ đầu tháng 2 năm 1929, nhân vụ án Badanh, thực dân Pháp ra sức truy lùng, bắt bớ những người yêu nước và phá vỡ hàng loạt các cơ sở cách mạng của Việt Nam quốc dân đảng ở Hà Nội và các tỉnh.
Từ đầu tháng 2 năm 1929, nhân vụ án Badanh, thực dân Pháp ra sức truy lùng, bắt bớ những người yêu nước và phá vỡ hàng loạt các cơ sở cách mạng của Việt Nam quốc dân đảng ở Hà Nội và các tỉnh. Số phận của VNQDĐ đang mấp mé bên bờ vực thẳm.
Trước tình thế nguy cấp, những người lãnh đạo Tổng bộ cho rằng không thể cứ ngồi yên chịu chết, mà phải đứng lên sống mái với quân thù. Từ cách nhìn nhận đó, Nguyễn Thái Học đã quyết định triệu tập hội nghị đại biểu toàn quốc của VNQDĐ ngày 17-9-1929 tại Lạc Đạo (Hải Dương) để bàn bạc và thống nhất kế hoạch khởi sự. Trong hội nghị này, xuất hiện hai phái: Phái cải tổ(l) và phải khởi nghĩa. Phái chủ trương khởi nghĩa do Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu đứng đầu chiếm ưu thế trong hội nghị. Tiếp theo hội nghị đại biểu toàn quốc, VNQDĐ còn tổ chức một cuộc họp nữa ở Bắc Ninh để hoạch định thời gian và phương thức tiến hành khởi nghĩa. Theo kế hoạch đã được thống nhất, VNQDĐ sẽ tổ chức khởi nghĩa ở các nơi và cùng lúc đánh vào các đô thị lớn là những trung tâm quân sự của Pháp. Lực lượng khởi nghĩa chủ yếu gồm anh em binh lính là người của Đảng trong quân đội của Pháp, đồng thời phối hợp với lực lượng của Đảng ở bên ngoài. Vũ khí một phần do các cơ sở của Đảng chế tạo phần còn lại phải cướp từ tay giặc. Thời gian khởi nghĩa ấn định vào ngày 9-2-1930. Theo phân công của Đảng, Nguyễn Thái Học trực tiếp chỉ đạo cuộc khởi nghĩa ở ba tỉnh đồng bằng: Hải Dương, Hải Phòng, Kiến An; còn Nguyễn Khắc Nhu chịu trách nhiệm tố chức cuộc khởi nghĩa ở ba tỉnh trung du Sơn Tây, Phú Thọ, Yên Bái.
Sau hai hội nghị ở Lạc Đạo và Bắc Ninh, công tác chuẩn bị khởi nghĩa được triển khai và đẩy mạnh ở các địa phương. Các xưởng chế bom được lập ra tại các tỉnh Bắc Ninh, Phú Thọ, Hải Dương, và đã sản xuất được hàng nghìn quả bom xi măng. Ngoài ra, VNQDĐ còn tổ chức rèn dao, kiếm, mã tấu và đưa đi cất giấu Ở những nơi kín đáo chờ ngày khởi sự. Các cơ sở may cờ, quân phục và in truyền đơn cũng làm việc liên tục ngày đêm.
Giữa lúc công cuộc chuẩn bị khởi nghĩa đang được tiến hành khẩn trương thì một số biến cố đã xảy ra, gây ảnh hưởng xấu tới hoạt động của VNQDĐ. Điển hình là vụ nổ bom do sơ suất khi chế tạo đã làm chết 3 đảng viên VNQDĐ ở Bắc Ninh (ngày 8-9-1929), và nhất là vụ phản bội của Phạm Thành Dương (tức Đội Dương) ngày 25-12-1929 tại hội nghị Võng La (Phú Thọ) . Những sự cố này đã buộc Pháp cảnh giác, tăng cường các cuộc lùng sục, khủng bố, đẩy VNQDĐ đến nguy cơ khởi nghĩa non.
Để đối phó với tình hình, ngày 26-1-1930, Nguyễn Thái Học lại triệu tập một cuộc họp khẩn cấp tại làng Mỹ Xá (Nam Sách, Hải Dương) để khẳng định lại chủ trương khởi nghĩa, đồng thời kiểm tra và thúc đẩy tiến độ thực hiện các công việc chuẩn bị khởi nghĩa. Trên cơ sở phần tích tình hình của Đảng, Nguyễn Thái Học nhận xét: "Đảng chúng ta (tức VNQDĐ - TG) có thể tiêu ma hết lực lượng. Một khi lòng sợ sệt đã chen vào đầu óc quần chúng khiến họ hết hăng hái, hết tin tưởng thì phong trào cách mạng có thể nguội lạnh như đám tro tàn, rồi người của Đảng cũng sẽ liên tiếp bị bắt dẩn, vô tình đã xô đẩy anh em vào cái chết lạnh lùng mòn mỏi ở các phòng ngục trại giam, âu là chết đi để thành cái gương phấn đấu cho người sau nối bước. Không thành công thi cũng thành nhân"(l).
Căn cứ vào kết quả chuẩn bị khởi nghĩa ở các địa phương, Nguyễn Thái Học đã bàn bạc với các đổng chí, quyết định hoãn thời gian khởi nghĩa tại ba tỉnh miền xuôi đến ngày 15-2-1930.
Đúng như kế hoạch đã định, đêm ngày 9 rạng ngày 10-2-1930, cuộc khởi nghĩa đã bùng nổ ở Yên Bái. Quân khởi nghĩa đã chiếm được trại lính cơ số 5 và 6, giết được một số sĩ quan và hạ sĩ quan người Pháp. Nhưng họ vẫn không lôi kéo được toàn bộ lính khố xanh, và không làm chủ được tình hình chiến sự ở Yên Bái.
Sáng ngày 10-2, Pháp tập trung lực lượng (có máy bay yểm trợ) tố chức phản công chiếm lại các căn cứ bị mất, đẩy nghĩa quân vào tình trạng tan rã.
Tại Lâm Thao (Phú Thọ), nghĩa quân dưới sự chỉ huy của Phạm Nhận đã nhất loạt nổ súng và nhanh chóng chiếm được huyện đường. Tri phủ Đỗ Kim Ngọc bỏ trốn. Nghĩa quân treo cờ và đốt lửa báo tin thắng lợi.
Cũng đêm 9-2-1930, Nguyễn Khắc Nhu dẫn một toán nghĩa quân đến đánh đồn Hưng Hóa, nhưng không đạt kết quả. Sáng hôm sau, quân Pháp từ Phú Thọ kéo lên phản công quyết liệt, quân khởi nghĩa bị đánh tan, Nguyễn Khắc Nhu bị thương sau đó bị bắt, rồi tự sát để giữ tròn khí tiết .
Tại Sơn Tây, cuộc tấn công đánh đốn chùa Thông cũng không giành được thắng lợi do kế hoạch khởi nghĩa bị lộ. Sáng ngày 10-2, người phụ trách có khởi nghĩa ở đây là Phó Đức Chính đã bị bắt.
Sau khi các cuộc nổi dậy ở các tỉnh miền ngược do Nguyễn Khắc Nhu đã thất bại thì tại các tỉnh miền xuôi kế hoạch khởi nghĩa mới bắt đầu được triển khai. Đêm ngày 14 rạng 15 tháng 2 năm 1930, VNQDĐ đã nổi dậy khởi nghĩa ở Phả Lại, Vĩnh Bảo (Hải Dương), Kiến An và Phụ Dực (Thái Bình), nhưng đều không thu được kết quả.
Tại Vĩnh Bảo, dưới sự chỉ huy của Trần Quang Diệu, nghĩa quân đã từ Cổ Am kéo lên đánh phá huyện đường, giết tri huyện Hoàng Gia Mô, rồi tự giải tán: ở Phụ Dực nghĩa quân đánh chiếm phủ huyện, đốt hết giấy tờ sổ sách, sau đó tự giải tán.
Tại Kiến An, do kế hoạch khởi nghĩa bị lộ, thực dân Pháp đã tức thời bắt giam toàn bộ số lính khố đỏ, và tố chức canh phòng cẩn mật. Biết không thể khởi nghĩa thắng lợi, nghĩa quân nhanh chóng tự giải tán trước khi bi quân Pháp phản công.
Riêng ở Hà Nội, ngay đêm nổ ra cuộc khởi nghĩa Yên Bái (10-2), một số đảng viên VNQDĐ (đều là học sinh trường Bách Nghệ) đã ném bom vào nhà tên Giám đốc sở mật thám ác nu (Arnoux ), vào nhà tù Hỏa Lò và Sở cảnh sát. Nhưng các vụ ném bom này ít gây tổn hại cho Pháp, không có tiếng vang lớn trong dân chúng.
Như vậy, chỉ trong vòng một tuần lễ, cuộc khởi nghĩa vũ trang quy mô lớn do VNQDĐ phát động đã bùng nổ ở nhiều nơi và mau chóng đi tới thất bại. Cuộc khởi nghĩa tuy không đạt được kết quả (do công tác tổ chức thiếu chu đáo, kế hoạch rất chủ quan, còn Pháp thì đang mạnh), nhưng đã có tiếng vang cả trong và ngoài nước. Tại Thủ đô Paris (Pháp), sinh viên và Việt kiều đã tổ chức biểu tình ủng hộ khởi nghĩa Yên Bái và chống việc khủng bố các chiến sĩ VNQDĐ.
Khởi nghĩa Yên Bái với những hành động quả cảm của các nghĩa quân VNQDĐ đã thể hiện tinh thần yêu nước, chí khí quật cường của dân tộc ta, góp phần thổi bùng lên ngọn lửa yêu nước trong các tầng lớp nhân dân. Từ đó, thấy rõ mâu thuẫn giữa nhân dân ta với đế quốc Pháp đã trở nên vô cùng gay gạt.
Tuy nhiên, thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Bái cũng chứng tỏ sự bồng bột, hăng hái nhất thời của tầng lớp tiểu tư sản. Đó cũng là thất bại của giai cấp tư sản dân tộc trong cuộc đấu tranh giành quyền lãnh đạo cách mạng Việt Nam
Đồng chí Lê Quẩn - nguyên Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam nhận định: "Khởi nghĩa Yên Bái chi là một 'cuộc bạo động bất đắc dĩ, một cuộc bạo động non, để rồi chết luôn không bao giờ ngóc lên nổi. Khẩu hiệu “Không thành công thì thành nhân" biểu lộ tính chất hấp tấp tiểu tư sản, tính chất hăng hái nhất thời và đồng thời cũng biểu lộ tính chất không vững chắc, non yếu của phong trào tư sản.
Từ sau cuộc bạo động Yên Bái, VNQDĐ hoàn toàn tan rã, khuynh hướng cách mạng dân tộc hoàn toàn thất bại, hệ tư tưởng tư sản cũng hoàn toàn bất lực trước các nhiệm vụ lịch sử của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Ngọn cờ cách mạng đã chuyển hẳn sang tay giai cấp vô sản. Từ đây trở đi, trên dải đất Việt Nam, phong trào chống đế quốc, giành độc lập dân tộc chỉ là những phong trào do giai cấp vô sản lãnh đạo".

2. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời.

Sự xuất hiện các tổ chức cộng sản Phong trào công nhân cuối những năm 20 phát triển không đồng đều, mạnh nhất là phong trào công nhân ở Bắc Kỳ, bởi ở đây có đông hội viên và trong hoạt động thực tiễn có nhiều sáng tạo.

* Sự xuất hiện các tổ chức cộng sản
Phong trào công nhân cuối những năm 20 phát triển không đồng đều, mạnh nhất là phong trào công nhân ở Bắc Kỳ, bởi ở đây có đông hội viên và trong hoạt động thực tiễn có nhiều sáng tạo. Phong trào "vô sản hóa" cũng được phát sinh từ đây và đã góp phần đẩy nhanh quá trình kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân. Từ thực tiễn sinh động đó, những ng¬ười lãnh đạo trong Kỳ bộ '' Bắc Kỳ những học trò xuất sắc của Nguyễn ái Quốc, đã nắm bắt được đòi hỏi '' của phong trào, nhận ra sự cấp thiết phải thành lập một Đảng Cộng sản thay cho HVNCMTN để tiếp tục đưa phong trào giải phóng dân tộc tiến lên.
Tháng 3-1929, Trần Văn Cung, Ngô Gia Tự, Nguyễn Đức Cảnh, Trịnh Đình Cửu, Đỗ Ngọc Du, Dương Hạc Đính và Nguyễn Tuân, họp tại ngôi nhà số 5D phố Hàm Long (Hà Nội) đã quyết định lập ra chi bộ cộng sản đầu tiên nhóm làm đầu tàu cho cuộc vận động thành lập Đảng Cộng sản Ở Việt Nam.
Tại Đại hội đầu biểu Kỳ bộ Bắc Kỳ họp vào cuối tháng 3-1929 trong đồn điền Bô ren (Sơn Tây) đã nhất trí thông qua chủ trương lập Đảng Cộng sản thay cho HVNCMTN đã hết vai trò lịch sử và cử một đoàn đại biểu gồm 4 đồng chí do Trần Văn Cung, Bí thư Kỳ bộ, dẫn đầu đi dự Đại hội I của Hội VNCMTN sẽ họp ở Hương Cảng. Đại hội cũng giao cho đoàn đại biểu của mình có nhiệm vụ '' đấu tranh khẳng định xu thế thành lập Đảng Cộng sản của Kỳ bộ mình tại Đai '' hội I Hội VNCMTN. 1 Đầu tháng 5-1929, tại Đại hội I của HVNCMTN, Đoàn đại biểu Kỳ bộ Bắc Kỳ đã đưa ra đề nghị giải tán tổ chức Thanh niên và thành lập Đảng Cộng sản. Nhưng đề nghị đó không được chấp nhận, nên Đoàn đã bỏ đại hội ra về.
Sau khi về tới Hà Nội, ngày 1-6-1929, Đoàn đại biểu Kỳ bộ Bắc Kỳ đã ra Tuyên ngôn giải thích lý do họ bỏ Đại hội ra về và chỉ ra những điều kiện khách quan và chủ quan đã chín muồi để thành lập một chính đảng của giai cấp công nhân.
Đêm 17-6-1929, 20 đại biểu ưu tú của Kỳ bộ Bắc Kỳ đã nhóm họp từ ngôi nhà 312 phố Kham Thiên (Hà Nội) tuyên bố thành lập Đông Dương Cộng sản đảng. Hội nghị đã thông qua Tuyên ngôn, Điểu lệ và quyết định xuất bản báo Búa liềm làm cơ quan ngôn luận của Đảng. Tuyên ngôn của Đông Dương Cộng sản đảng xác định rõ tính chất của Đảng : "Đông Dương Cộng sản đảng là Đảng cách mạng, đại biểu cho tất cả anh chị em vô sản giai cấp (tức thợ thuyền) ở Đông Dương. Đảng Cộng sản là đảng bênh vực cho toàn thế giới vô sản giai cấp, nhưng chỉ gồm những người nào giác ngộ cách mạng, tiên tiến hơn cả trong giai cấp vô sản".
Cùng với công tác tuyên truyền, Đông Dương Cộng sản đảng đã cử người vào Trung Kỳ và Nam Kỳ tuyên truyền và tổ chức các cơ sở Đảng Ở các địa phương đó. Trước ảnh hưởng sâu rộng của Đông Dương Cộng sản đảng, Tổng bộ Thanh niên và Kỳ bộ Nam Kỳ đã quyết định thành lập An Nam Cộng .sản đảng vào tháng 8-1929(7), xuất bản báo ĐỎ làm cơ quan ngôn luận của mình.
Cùng với quá trình phân hóa trong HVNCMTN dẫn tới sự ra đời của hai tổ chức cộng sản, khuynh hướng tư tưởng xã hội chủ nghĩa ngày càng thắng thế trong Tân Việt Cách mạng đảng. Các đại biểu cấp tiến của Tân Việt đã nhóm họp tại Sài Gòn vào tháng 9-1929, ra "Tuyên đạt" tuyên bố chính thức thành lập Đông Dương Cộng sản liên đoàn và sẽ cùng Đông Dương Cộng sản đảng và An Nam Cộng sản đảng "1iên hợp thành một tổ chức cộng sản ở Đông Dương để cho sức mạnh cộng sản vững chắc và duy nhất". Sự ra đời của ba tổ chức cộng sản ở nửa sau năm 1929 khẳng định hệ tư tưởng cộng sản đã chiếm ưu thế trong phong trào dân tộc ở Việt Nam.

* Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
Sau khi ra đời, ba tổ chức cộng sản đều tuyên bố ủng hộ Quốc tế Cộng sản, kêu gọi Quốc tế Cộng sản thừa nhận tổ chức của mình và đều tự nhận là đảng cách mạng chân chính. Trong quá trình phát triển tổ chức của mình, các đảng cộng sản không thể không tranh giành ảnh hưởng trong quần chúng nhân dân, và không tránh khỏi công kích lẫn nhau. Tình hình đó sớm muộn sẽ gây ra sự chia rẽ trong phong trào công nhân, dẫn đến sự tổn thất cho phong trào cách mạng. Một đòi hỏi khách quan là phải thống nhất các tổ chức cộng sản lại làm một. Vì vậy, ngày 27-10-1929 Quốc tế Cộng sản đã gửi một lá thư, như một chỉ thị cho những người cộng sản Đông Dương, trong đó yêu cầu các tổ chức cộng sản phải chấm dứt sự chia rẽ, công kích lẫn nhau và tích cực xúc tiến việc hợp nhất thành một đảng duy nhất ở Đông Dương. Thực hiện chỉ thị đó của Quốc tế Cộng sản, Đông Dương Cộng sản đảng và An Nam Cộng sản đảng đã cử những đại diện của mình, tiến hành những cuộc tiếp xúc bàn việc hợp nhất, nhưng không thành.
Trước nhu cầu cấp bách của phong trào cộng sản trong nước, với tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản, có đầy đủ quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến phong trào cách mạng Ở Đông Dương Nguyễn Ái Quốc đã tới Hương Cảng (Trung Quốc) để triệu tập hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một chính đảng duy nhất.

Hội nghị hợp nhất gồm hai đại biểu của Đông Dương Cộng sản đảng là Trịnh Đình Cửu và Nguyễn Đức Cảnh, 2 đại biểu của An Nam Cộng sản Đảng là Châu Văn Liêm và Nguyễn Thiệu dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc, đã họp ở Cửu Long Hương Cảng (Trung Quốc). Tại phiên họp ngày 3-2-1930, các đại biểu đã nhất trí hợp nhất các tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua Chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ tóm tắt(8). Trong các văn kiện chủ yếu trên, Đảng Cộng sản Việt Nam được xác định là 'đội tiền phong của vô sản giai cấp" chủ trương tiến hành “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản". Đồng thời, qua các văn kiện đó, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định cho mình nhiệm vụ lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng đánh đổ đế quốc Pháp và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc, thành lập chính phủ công nông binh, tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc phong kiến chia cho nông dân nghèo, quốc hữu hoá các sản nghiệp, mở mang sản xuất, thực hiện các quyền tự do dân chủ, quyền bình đẳng nam nữ, thi hành luật ngày làm việc 8 giờ ...

Để thực hiện được mục tiêu chiến lược trên, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương tập hợp được đại bộ phận giai cấp công nhân, làm cho giai cấp công nhân lãnh đạo được quần chúng, phải thu phục cho được đại đa số dân cày và phải dựa vào hạng dân cay nghèo. Đồng thời phái “hết sức liên lạc với tiểu tư sản trí thức, trung nông... để lôi kéo họ về phe vô sản giai cấp. Còn đối với phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản Việt Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít nữa là làm cho họ trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng thì phải đánh đổ".

Chính cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt do Nguyễn ái Quốc khởi thảo và thông qua tại Hội nghị hợp nhất là cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng một cương lĩnh cách mạng đúng đắn và sáng tạo.

Sau Hội nghị hợp nhất, ngày 24-2-1930 theo đề nghị của Đông Dương cộng sản liên đoàn, Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chấp nhận hợp nhất tổ chức này vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Như vậy, việc hợp nhất các tổ chức cộng sản đến cuối tháng 2 năm 1930 mới hoàn tất.

Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là kết quả của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác-lênin tư tưởng cách mạng tiên tiến của thời đại với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam chứng tỏ giai cấp công nhân nước ta đã trưởng thành và đủ khả năng đảm nhiệm vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Thông qua đội tiền phong của mình, giai cấp công nhân có sứ mệnh lãnh đạo toàn thể nhan dân tiến hành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc tới thắng lợi. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chấm dứt cuộc khủng hoảng đường lối cứu nước lừ cuối thế kỷ trước. Sự ra đời của Đảng chính là sự chuẩn bị nhân tố quan trọng đầu tiên cho những thắng lợi tiếp sau. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là bước ngoặt lịch sử quan trọng trong lịch sử nước ta.

Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, dưới tác động của chương trình khai thác thuộc địa lần thứ hai, đất nước ta đã có những biến chuyển mạnh mẽ trên phương diện kinh tế và xã hội. Từ đó, phong trào dân tộc cũng có những bước phát triển mạnh mẽ. Trong những năm 20 của thế kỷ này, các giai tầng xã hội đã bước lên vũ đài chính trị với những đòi hỏi, yêu cầu và những hành động cách mạng riêng, tùy thuộc vào mối quan hệ của mình đối với chính quyền thực dân, tùy thuộc vào vị thế của mình trong kết cấu giai cấp của xã hội thuộc địa. Phong trào dân tộc sau chiến tranh có những chuyển biến mới trong nội dung và phong phú về các hình thức biểu hiện. Và cuối cùng, lịch sử đã chứng kiến sự bất lực của hệ tư tưởng dân chủ tư sản trước nhiệm vụ cứu nước và chứng kiến sự chuyển giao ngọn cờ giải phóng vào tay giai cấp công nhân với đội tiền phong của nó là Đảng Cộng sản Việt Nam.

3.Sự xuất hiện và hoạt động của ba tổ chức cách mạng

Phong trào dân tộc ở Việt Nam sau Chiến tranh thế giới thứ nhất đã phát triển sôi nổi, trong đó mỗi giai tầng đều tung ra những đòi hỏi khác nhau đối với chính quyền thực dân. Trước khí thế của phong trào, thực dân Pháp đã tự lột mặt nạ, dùng vũ lực đàn áp phong trào lấy không của nhân dân ta.
Phong trào dân tộc ở Việt Nam sau Chiến tranh thế giới thứ nhất đã phát triển sôi nổi, trong đó mỗi giai tầng đều tung ra những đòi hỏi khác nhau đối với chính quyền thực dân. Trước khí thế của phong trào, thực dân Pháp đã tự lột mặt nạ, dùng vũ lực đàn áp phong trào lấy không của nhân dân ta. Cuộc đàn áp, khủng bố đó về khách quan đã đẩy một bộ phận lớn những người yêu nước cố kết với nhau trong các tổ chức cách mạng. Vì thế, dần dần xuất hiện 3 tổ chức cách mạng : hội Việt Nam cách mạng thanh niên, Tân Việt cách mạng đảng  Việt Nam quốc dân đảng. Sự ra đời của các tổ chức cách mạng này đánh dấu một bước tiến dài trong phong trào dân tộc.

Hội Việt Nam cách mạng thanh niên 

Sự ra đời của tổ chức cách mạng nay gắn liền với hoạt động của Nguyễn ái Quốc tại Quang Châu (Trung Quốc). Rời Mátxcơva, tháng 1 1-1924, Nguyễn ái Quốc đến Quảng Châu. Sau khi hợp thức hóa công việc của mình trong Phái bộ Bôrôđin, Người bắt đầu tiếp xúc với những người yêu nước ViệtNam đang hoạt động. Ở đây, đặc biệt với tổ chức Tâm Tâm xã. Người đã lựa chọn một số thanh niên tích cực trong tổ chức nay, tuyên truyền giác ngộ họ và tháng 2- 1 925 lập ra nhóm Cộng sản đoàn làm hạt nhân cho một tổ chức cách mạng rộng lớn hơn. Tháng 6-1925 Nguyễn ái Quốc( thành lập Hội ViệtNam cách mạng thanh niên niên (HVNCMTN). Tháng 7 năm đó, Người cùng với một số nhà cách mạng Trung Quốc, Triều Tiên, Inđônêxia ... lập ra Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức và đưa Hội VNCMTN vào trong hiệp hội quốc tế này. Sau khi thành lập, Hội công bố Chương trình, Điều lệ, tuyên bố lập trường chính trị, nguyên tắc tổ chức và tiến hành hoạt động. 
Trong đường lối chính trị của HVNCMTN có những nội dung chủ yếu sau đây:
-     Tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc, tiếp đó là cách mạng xã hội chủ nghĩa.
-    Thành lập chính phủ công nông binh, thực hiện chính sách phát triển sản xuất, xoá bỏ tư bản, xây dựng xã hội cộng sản ở Việt Nam và trên thế giới, trước mặt là chia ruộng đất cho dân cày, bỏ thuế thân và các thứ thuế vô lý khác, thực hiện ngay làn tám giờ, quyền tự do dân chủ, quyền nam nữ bình đẳng. 
-  Đoàn kết với giai cấp vô sản và phong trào cách mạng thế giới.
Về tổ Chức, Hội tổ chức một hệ thống gồm 5 cấp : Tổng bộ, Xứ (kỳ) bộ, Tỉnh (thành) bộ, Huyện bộ và Chi bộ; hoạt động theo nguyên tắc tập trung, dân chủ. 
Như vậy, HVNCMTN chưa phải là Đảng Cộng sản, nhưng đường lối chính trị, chương trình hành động và điều lệ của Hội đã thể hiện rõ lập trường cách mạng của giai cấp công nhân. Thông qua tổ chức cách mạng này, Nguyễn ái Quốc muốn xúc tiến thêm một bước việc chuẩn bị về chính trị tư tưởng và tổ chức để tiến tới thành lập một Đảng Cộng sản ở Việt Nam.
Sau khi thành lập, hoạt động HVNCMTN tập trung vào các hướng sau đây:
Đào tạo đội ngũ cán bộ cách mạng được tiến hành theo 2 phương thức: tự  mở lớp và gửi học sinh đi học.
Ở phương thức đầu, từ năm 1925 đến đầu năm 1927, Hội đã liên tục mở nhiều khóa huấn luyện chính trị cho thanh niên yêu nước học. Nguyên ái Quốc cho biết đã đưa được 75 thanh niên Việt Nam đến học ở trường do Người tổ chức ở Quảng Châu.(5) Nội dung học tập khá rộng. Học viên được truyền thụ về lịch sử tiến hóa nhân loại, các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản, về phong trào giải phóng dân tộc, về phương pháp cách mạng, về Cách mạng tháng Mười Nga, về lịch sử các tổ chức Quốc tế I, II, III. Tại các khóa học, học viên còn được huấn luyện kỹ năng hoạt động bí mật như diễn thuyết, làm báo và công tác dân vận. Kết thúc các khóa học, học viên được kết nạp vào Hội, được cử về nước và sang Xiêm hoạt động. Họ trở thành những ng­ười cổ động, tuyên truyền và tổ chức cho khuynh hướng cách mạng mới. 
 Ngoài việc mở các lớp huấn luyện, Nguyễn ái Quốc còn lựa chọn những thanh niên xuất sắc gửi đi học Trường Đại học Phương Đông của Quốc tế Cộng sản Ở Mátxcơva như Trần Phú, Lê Hồng Phong, Phùng Chí Kiên, Hà Huy Tập ...  và Trường Quân sự Hoàng Phố của Chính phủ cách mạng Quảng Châu như Lê Thiết Hùng, Nguyễn Sơn, Trương Văn Lĩnh v.v... 
Cùng với việc đào tạo, Hội rất chú trọng tới việc xuất bản báo chí, sách vở làm phương tiện tuyên truyền đường lối của Hội trong quần chúng nhân dân lao động. Nói đến báo chí, trước hết phải kể tới tờ báo Thanh niên, cơ quan ngôn luận của Hội. Đây là tuần báo, in bằng tiếng Việt, số 1 ra ngày 21-6-1925. Cho đến tháng 2-1930, báo Thanh niên ra được tất cả 208 số. Trong 60 số đầu, báo Thanh niên tập trung giáo dục lòng yêu nước, kêu gọi đoàn kết, từ số 61 trở đi  mới đề cập tới sự cần thiết phải có một Đảng cách mạng, Đảng Cộng sản để lãnh đạo phong trào cách mạng nước ta đi tới thắng lợi. Ngoài báo Thanh niên, Hội còn xuất bản những tờ báo có phạm vi bạn đọc hẹp hơn như tờ Công Nông, Lính Cách mạng.
 Ngoài báo chí, đầu năm 1927, Hội cho ấn hành cuốn sách Đường cách mệnh của Nguyễn ái Quốc. Nội dung chủ yếu của tập sách chỉ ra cho nhân dân ta con đường và cách thức tiến tới thắng lợi. Đường cách mạng  chỉ rõ cách mạng Việt Nam trước hết phải làm "dân tộc cách mạng" đánh đuổi thực dân Pháp, giành lại độc lập cho đất nước, tự do cho đồng bào, sau đó tiến hành làm "giai cấp cách mệnh" đánh đổ tư bản giải phóng quần chúng lao động. Cách mạng muốn giành được thắng lợi phải coi "công nông là gốc" của cách mạng, còn học trò, nhà buôn, điền chủ nhỏ là bầu bạn của cách mạng. Đường cách mạng còn chỉ rõ nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng là sự lãnh đạo của Đảng cách mạng được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác-lênin.
-  Xây dựng hệ thống tổ chức trong nước
Từ cuối năm 1926. sau khi bế giảng lớp huấn luyện chính trị đầu tiên, Nguyễn ái Quốc đã chọn 6 học viên, cử về ba trung tâm của đất nước Hà Nội, Vinh, Sài Gòn  để tuyên truyền và gây dựng cơ sở. Với sự hoạt động tích cực của các chiến sĩ tiên phong này các chi bộ đầu tiên của HVNCMTN được thành lập. Trên cơ sở đó, xuất hiện các cấp tổ chức cao hơn : Kỳ bộ, Tỉnh bộ (Thành bộ) và cuối cùng là Huyện bộ. Cùng với việc xây dựng và phát triển hệ thống tổ chức của Hội ở trong nước, HVNCMTN còn chú trọng xây dựng các chi bộ trong Việt kiều ở Xiêm (Thái Lan). Thời kỳ đầu xây dựng tổ chức, các hội viên thường sử dụng các mối quan hệ bè bạn, họ hàng, thầy trò trong việc lập các chi bộ. Vì vậy, thành phần trí thức tiểu tư sản chiếm tỷ lệ cao. Từ cuối năm 1928, Hội đã định hướng mới trong hoạt động của mình bằng chủ trương phát động phong trào "vô sản hóa" nên đã tăng tỷ lệ công nhân, nông dân trong tổ chức cách mạng này. Đến nam 1929, HVNCMTN đã xây dựng được cơ sở ở khắp các tỉnh, thành phố cả nước. Số hội viên đã lên tới 1.500 người. Hội VNCMTN đã đóng vai trò quan trọng trong việc chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. 

Tân Việt Cách mạng đảng 

Tân Việt Cách mạng đảng (Tân Việt) là tên gọi cuối cùng của một tổ chức yêu nước đã trải qua nhiều biến thiên và chủ tổ. Tiền thân của Tân Việt  Hội Phục hưng Việt Nam (Phục Việt), được thành lập ngày 14-7-1925 tại Vinh (Nghệ An) từ hai lực lượng : nhóm tù chính trị vừa được tha về như Lê Văn Huân, Nguyễn Đình Kiên... và nhóm sinh viên Cao đẳng sư phạm Hà Nội như Tôn Quang Phiệt, Đặng Thai Mai. Chương trình hành động của Phục Việt rất đơn giản, gồm 3 điểm :
 -  Nghiên cứu tình hình chính trị trong nước để quyết định nên bạo động hay hòa bình. 
 - Tìm cách liên lạc với các nhà cách mạng Việt Nam đang hoạt động ở Trung Quốc và Xiêm xem chủ trương của họ thế nào.
 - Tuyển mộ đồng chí mới.
Sau khi thành lập, Phục Việt tích cực tham gia vào phong trào đấu tranh đòi ân xá Phan Bội Châu bằng việc rải truyền đơn tại Hà Nội. Sợ bị lộ nên đầu năm 1926 Phục Việt đổi thành Hưng Nam, năm 1927 đổi thành Việt Nam Cách  mạng đảng, rồi Việt Nam cách mạng đồng chí hội. Cuối cùng; tại Đại hội họp ở Huế tháng 7-1928, Hội chính thức mang tên Tân Việt cách mạng đảng. Cho đến tháng 7-1928, Tân Việt là tổ chức chính trị theo khuynh hướng dân tộc tư sản. Trong suốt quá trình tồn tại, tổ chức chính trị này đã cử người sang Quảng Châu (Trung Quốc) dự các lớp huấn luyện chính trị của Nguyễn ái Quốc và chịu ảnh hưởng tư tưởng của HVNCMTN. Vì thế, lập trường chính trị của tổ chức ngày dần dần thay đổi và chuyển dần sang khuynh hướng dân tộc xã hội chủ nghĩa. 
 Về tư tưởng chính trị, Tân Việt xác định :"Liên hợp cả các đồng chí trong ngoài, trong thì dẫn đạo công nông binh, quần chúng, ngoài thì liên lạc với các dân tộc bị áp bức để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa đặng kiến thiết một xã hội bình đẳng bác ái mới". 
Thành phần xã hội của đảng viên Tân Việt chủ yếu gồm các phần tử thanh niên trí thức, học sinh, công chức, tiểu thương và công nông, đặc biệt là những người có học. Tỉnh bộ, Đại tổ và Tiểu tổ. Tiểu tổ, đơn vị cơ sở của Tân Việt được tổ chức theo nguyên tắc "Tam Tam chiêm tứ (là một tiểu tổ có 3 đảng viên, 3 tiểu tổ hợp thành một đại tổ. Tân Việt có 10 liên tỉnh bộ và 3 kỳ bộ. Các kỳ bộ được gọi theo quy ước riêng: Bắc Kỳ gọi là Nhân Kỳ, Trung Kỳ - Trí Kỳ, Nam Kỳ - Dũng Kỳ. Địa bàn hoạt động chủ yếu của Tân Việt là các tỉnh miền Trung, mạnh nhất ở Nghê - Tĩnh. Đến cuối năm 1928 , ở đây số lượng đảng viên đã lên tới 612 người, đã gây dựng được cơ sở trong các nhà máy, xí nghiệp, đường phố và các vùng nông thôn.
Trong suốt quá trình hoạt động, Tân Việt chú ý nhiều tới công tác giáo dục, huấn luyện đảng viên theo hình mẫu của HVNCMTN. Đồng thời Tân Việt còn tổ chức và lãnh đạo nhiều cuộc đấu tranh của học sinh, tiểu thương và công nhân. tiêu biểu là cuộc đình công của công nhân Nhà máy diêm Bản Thủy (tháng 4- 1928), cuộc bãi công của công nhân đường sắt Biên Hòa - Sài Gòn (tháng 9- 1929). 
Do chịu ảnh hưởng tư tưởng mác xít, nhiều đảng viên Tân Việt đã chuyển sang hoạt động cho HVNCMTN. Nội bộ Tân Việt ngày càng phân hóa thành 2 khuynh hướng rõ rệt: dân tộc tư sản và dân tộc xã hội chủ nghĩa. Những người trong ban lãnh đạo Tổng bộ đều đứng trên lập trường dân tộc tư sản. Giữa năm 1929 những ng­ười theo khuynh hướng dân tộc tư sản trong Ban lãnh đạo Tổng bộ Tân Việt đã công bố đề án thành lập "Khối quốc gia”, Trước tình hình đó, những đảng viên tích cực, cấp tiền trong Tân Việt đã nhóm họp và đi đến tiến hành cuộc vận động thành lập một tổ chức cộng sản lấy tên là Đông Dương cộng sản liên đoàn.
 Sự biến thiên của tổ chức chính trị này phản ảnh một sự thực lịch sử là vào những năm 20, tại Việt Nam, đã diễn ra cuộc đấu tranh tư tưởng giữa tư tưởng dân tộc tư sản và tư tưởng xã hội chủ nghĩa và cuối cùng tư t­ưởng xã hội chủ nghĩa đã chiến thắng. Sự thắng lợi của khuynh hướng xã hội chủ nghĩa là tất yếu. 

  Việt Nam Quốc dân đảng

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét