NHỮNG
PHÁT KIẾN LỚN VỀ ĐỊA LÍ
I)
NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA NHỮNG PHÁT KIẾN LỚN VỀ ĐỊA LÍ
Trong thời cổ đại
và sơ kì trung đại, người châu Âu chưa giám vượt qua các đại dương. Những nơi
mà các thương nhân và những nhà hàng hải châu Âu quen thuộc chỉ là miền bờ biển
quanh châu Âu và Địa Trung Hải. Nhưng từ nửa sau thế kỉ XV trở đi, người châu Âu
đã tiến hành nhiều cuộc thám hiểm vượt đại dương với mục đích tìm con đường biển
sang phương Đông. Trong số những cuộc thám hiểm này, có ba cuộc thám hiểm địa lí
lớn nhất diễn ra vào cuối thế kỉ XV, đầu thế kỉ XVI dẫn tới ba phát kiến địa lí
lừng danh: Cuộc thám hiểm tìm ra châu Mĩ (1492) của Crixtop Colombo, cuộc thám
hiểm đường biển vòng qua châu Phi tới Ấn Độ (1497 – 1498) của Magienlang. Những
phát kiến lớn về địa lí trên đã làm đảo lộn nhiều quan điểm về Trái Đất thời đó.
Không đầy 50 năm sau, loài người đã biết đến hầu hết các biển, các miền đất lạ.
Những
phát kiến lớn về địa lí diễn ra là do những mâu thuẫn về kinh tế, xã hội nảy
sinh trong quá trình phát triển của sức sản xuất trong hoàn cảnh lịch sử của Tây
Âu bước vào thời kì quá độ từ chủ nghĩa phong kiến sang chủ nghĩa tư bản. Nguyên
nhân quan trọng nhất là do nguy cơ bế tắc trong việc buôn bán trực tiếp với phương
Đông của người châu Âu. Trước đó, giai cấp phong kiến ở châu Âu vốn đã tiêu thụ
một khối lượng lượng lớn hang xa xỉ như gia vị, tơ lụa và đồ châu ngọc mang từ
phương Đông sang. Nhưng từ cuối thế kỉ XV, đối với châu Âu, hang hóa phương Đông
trở nên khan hiếm, giá cả cao vọt do các thương lộ sang phương đông gặp những
trở ngại hầu như không thể khắc phục được. Một trong những con đường buôn bán
chủ yếu của châu Âu với phương đông là con đường qua Địa Trung Hải, sau cuộc Thập
tự chinh, nằm trong tay người Italia. Một số thành thị Italia đã đạt được cơ sở
phồn vinh trên thương lộ này. Tuy nhiên, họ vẫn nhờ vào sự mô giới của người A
Rập, vì người A Rập hầu như đã kiểm soát toàn bộ con đường buôn bán phía nam sang
Ấn Độ hoặc là đi qua Ai Cập và Hồng Hải, cũng như không một thương nhân châu Âu
nào được phép qua đó. Người A Rập trở thành kẻ lũng đoạn hang hóa Ấn Độ, châu Âu
phải mua lại hang hóa đó với giá đắt gấp từ 8 đến 10 lần.
Một
con đường buôn bán khác là con đường xuyên qua đại lục châu Á đến Trung Quốc cũng
đã mất hết tác dụng do bị dân du mục của nước Afghanistan thay nhau chiếm giữ.
Tuy nhiên, trrong việc buôn bán với phương Đông, nguy cơ bế tắ chủ yêu vẫn là
việc người Thổ Nhĩ Kì chiếm lĩnh mất con đường qua Hắc Hải, vịnh Ba Tư. Năm
1453, khi đế quốc Bidantium diệt vong, người Thổ chiếm lĩnh Congtangtinop rồi
chiếm luôn Tiểu Á và bán đảo Bancang. Năm 1457, họ chiếm Crime. Hắc Hải trở thành
biển của họ. Từ đó về sau Hắc Hải và những vùng đất người Thổ Nhĩ Kì chiếm lĩnh
hoàn toàn trở nên khốc liệt do chính sách kinh tế tàn bạo của người Thổ. Họ đã
cướp đoạt hàng hóa của thương nhân một cách vô lí, khiến con đường buôn bán này
của châu Âu với phương Đông trở nên tuyệt vọng.
Trong
tình hình bế tắc đó, cuộc thám hiểm tìm đường biển sang phương Đông trở nên có ý
nghĩa vô cùng quan trọng.
Những
phát kiến lớn về địa lí diễn ra còn bởi một nguyên nhân quan trọng khác: đó là long
tham vàng của quý tộc và thương nhân châu Âu. Nó thôi thúc những người này lao
vào những cuộc viễn chinh đầy mạo hiểm. Đối với người châu Âu, phương đông - nhất
là Ấn Độ - trong trí tưởng tượng của họ là một xứ sở không chỉ giàu hương liệu,
gia vị, tơ lụa, mà còn là một vùng đất giàu không thể tưởng tượng được về vàng.
Phương Đông đã được tô vẽ thành một thế giới thần tiên giàu có trong Nghìn lẻ một đêm và cuốn sách Những chuyện
kì lạ và chính người châu Âu đã từng chứng kiến cảnh huy hoàng của kinh thành
Bidantium trong thời kì Thập tự chinh và cũng như sự giàu có của người A Rập .
Trung Quốc và Ấn Độ được coi là thiên đường mà người Tây Âu muốn hướng tới. Vàng
và gia vị là ước vọng người Tây Âu mong thu lượm được. Do vậy, ý định trước tiên
của tất cả những người tham gia thám hiểm là tìm bằng được vàng. Nhưng mặt khác
Tây Âu thời kì đó quả thực cũng rất cần vàng để phát triển nề kinh tế của nó. Tư
bản đã bắt đầu hình thức tiền tệ dưới cái vỏ bằng vàng. Trong khi đó, Italia cứ
nhập siêu mãi trong việc buôn bán với Cận Đông nên vàng cứ chảy sang phương Đông.
“Cơn khát vàng” nóng bỏng xôn xao một thời ấy phản ánh những mâu thuẫn và yêu cầu
phát triển hơn nữa của quan hệ hang hóa tiền tệ ở Tây Âu, nó thôi thúc các nhà
mạo hiểm Tây Âu lao vào cuộc hành trình đường biển nguy hiểm nhất.
Đến
thế kỉ XV, ở Tây Âu đã có đủ các điều kiện chin muồi để tiến hành những cuộc thám
hiểm bằng đường biển. Trước hết là những thành tựu về khoa học, kĩ thuật, đặc
biệt là kĩ thuật hang hải, đóng tàu thuyền. Từ đầu thế kỉ XV người Tây Âu đã biết
đến địa bàn nam châm và cuối thế kỉ XV nó được sử dụng một cách phổ biến để dung
đi biển khi không có mặt trời hay trăng sao. Kĩ thuật đóng tàu đã có những bước tiến mới. Hồi đó
những xưởn đóng tàu đã đóng được những con tàu dài và đẹp hơn kiểu tàu Địa
Trung Hải trước đó, thích hợp với sóng gió đại dương hơn. Trên loại tàu có nắp
buồm hình vuông và buồm hình tam giác. loại tàu mới đó gọi là Caraven. Đây là tàu
vượt đại dương đầu tiên trong lịch sử.
Về kiến
thức địa lí thì ngay từ cuối thế kỉ XIII ở Tấy Âu đã lưu hành quan niệm quả đất
hình tròn. Quan niệm này đã được học phái Pitago và sau đó là Arixtot ở Cổ Hy Lạp
nghiên cứu. Đến thế kỉ II, nhà thiên văn nổi tiếng Ptoleme ở Alechxandri trình
bày rõ ràng hơn. Đến thế kỉ XIV, các thủy thủ Italia đã lập được những địa đồ tương đối chính xác nhưng phần nhiều là chỉnh lại địa đồ Địa Trung Hải, khu vực mà họ quen thuộc. Tuy nhiên theo học thuyết quả đất hình cầu của Ptoleme, một nhà thiên văn ở thành phố Vorolangxan (Italia) là Toxcanenli dự đoán là đi về phía Tây thì cũng có thể đến được châu Á. Dựa trên tư tưởng đó, ông đã lập một bản đồ thế giới, trên đó Ấn Độ ở bờ bên kia của Đại Tây Dương; còn bờ bên này là châu Âu. Dĩ nhiên thời đó Toxcanenli cũng như những người châu Âu chưa thể biết được giữa châu Âu và châu Á còn có một đại lục là châu Mĩ và hai đại dương (Thái Bình Dương và Đại Tây Dương) rộng lớn nữa. Có điều chắc chắn là, sở dĩ Colombo có ý định vượt qua Đại Tây Dương để sang Ấn Độ chính vì chịu ảnh hưởng của thuyết quả đất tròn cùng những dự đoán và bản đồ thế giới của Toxcanenli. Tuy nhiên, trong các phát kiến lớn, điều kiện tinh thần luôn là lực phát động, nhưng bao giờ cũng vậy, động lực chính làm quay guồng máy phải là những điều kiện vật chất. Vào thế kỉ XV, sự phát triển của chủ nghĩa chuyên chế Tây Âu đã tạo ra những điều kiện vật chất quan trọng cho việc thực hiện những cuộc thám hiểm. Bởi vì những tiêu hao về vật chất mà những cuộc thám hiểm trên biển cần đến là rất lớn, vượt quá xa khả năng kinh tế của chúa phong kiến bình thường cũng như các công tước và bá tước. Việc thám hiểm được coi là những khoản thu nhập quan trọng nhất và được xem là một trong những nhiệm vụ trong chính sách của nhà nước chuyên chế, trong việc củng cố sự vững mạnh của nhà nước chuyên chế. Do vậy, trang bị cho những cuộc thám hiểm này chủ yếu là do nhà nước.
II - NHỮNG PHÁT KIẾN LỚN VỀ ĐỊA LÍ
Trong lịch sử phát kiến lớn về địa lí là lịch sử của hàng loạt các hoạt động thám hiểm dũng cảm và đã đưa lại những thành tựu to lớn. Người Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha nằm trong số những người đầu tiên và tích cực nhất tham gia vào các hoạt động thám hiểm. Sở dĩ như vậy vì Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha có vị trí địa lí thuận lợi. Trong thời kì diễn ra những cuộc thám hiểm, nền kinh tế hàng hóa của hai nước này khá phát triển, nhất là ở các thành thị ven biển. Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha đều có những hạm đội thuyền mạnh nhất Châu Âu bấy giờ với nhiều thủy thủ gan dạ. Hai nước này đã từng tiến hành cuộc đấu tranh mấy trăm năm với người A Rập, đồng thời phải đấu tranh chống sự lũng đoạn buôn bán của người Italia. Cuộc đấu tranh đó đã sinh ra tầng lớp quý tộc thượng võ hiếu chiến. Tầng lớp này quyết tâm tham gia vào những hoạt động thám hiểm nhằm bổ cứu cho sự nghiệp kinh tế đã lung lay của họ do cuộc chiến tranh lâu dài gây nên.
Những phát kiến đại lí lớn nhất, chủ yếu do người Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha lập nên. Dĩ nhiên họ đã thừa kế những thành quả của những cuộc thám hiểm trước đó. Nhưng chỉ những phát kiến của người Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha mới dẫn đến những hâu jquar kinh tế quan trọng nhất.
1. Cuộc phát kiến của người Bồ Đào Nha
II - NHỮNG PHÁT KIẾN LỚN VỀ ĐỊA LÍ
Trong lịch sử phát kiến lớn về địa lí là lịch sử của hàng loạt các hoạt động thám hiểm dũng cảm và đã đưa lại những thành tựu to lớn. Người Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha nằm trong số những người đầu tiên và tích cực nhất tham gia vào các hoạt động thám hiểm. Sở dĩ như vậy vì Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha có vị trí địa lí thuận lợi. Trong thời kì diễn ra những cuộc thám hiểm, nền kinh tế hàng hóa của hai nước này khá phát triển, nhất là ở các thành thị ven biển. Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha đều có những hạm đội thuyền mạnh nhất Châu Âu bấy giờ với nhiều thủy thủ gan dạ. Hai nước này đã từng tiến hành cuộc đấu tranh mấy trăm năm với người A Rập, đồng thời phải đấu tranh chống sự lũng đoạn buôn bán của người Italia. Cuộc đấu tranh đó đã sinh ra tầng lớp quý tộc thượng võ hiếu chiến. Tầng lớp này quyết tâm tham gia vào những hoạt động thám hiểm nhằm bổ cứu cho sự nghiệp kinh tế đã lung lay của họ do cuộc chiến tranh lâu dài gây nên.
Những phát kiến đại lí lớn nhất, chủ yếu do người Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha lập nên. Dĩ nhiên họ đã thừa kế những thành quả của những cuộc thám hiểm trước đó. Nhưng chỉ những phát kiến của người Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha mới dẫn đến những hâu jquar kinh tế quan trọng nhất.
1. Cuộc phát kiến của người Bồ Đào Nha
Trước khi người
Bồ Đào Nha tiến hành những cuộc thám hiểm địa lí, người Italia đã là người đầu
tiền tiến hành những cuộc hành trình dọc bờ biển châu Phi trên Đại Tây Dương để
tìm đường biển thông sang Ấn Độ, nhưng những thám hiểm và phát hiện của người
Italia chỉ là khúc nhạc đệm mà thôi, họ chưa đến được Ấn Độ.
Từ đầu thế kỉ XV
trở đi, sau khi đã đánh đuổi được người Hồi giáo ra khỏi đất nước, người Bồ Đào
Nha bắt đầu mang hết sức lục ra khám phá những bờ biển châu Phi. Năm 1415 một
trường học hang hải, thiên văn và địa lí đã được thành lập ở Bồ Đào Nha. Người
sáng lập ra nó là Hoàng tử Henri (1393 – 1460) con trai của quốc vương Bồ Đào
Nha. Trong trường hang hải, người ta tập hợp rất nhiều sách vở, bản đồ và các
phương tiện để nghiêm cứu địa lí, đồng thời mời nhiều nhà bác học A Rập và Do
Thái tới làm việc. Từ năm 1416 trở đi, hầu như năm nào cũng có một đoàn thám hiểm
của người Bồ Đào Nha ra di, Nhưng mỗi đoàn chi đi được một quãng rồi quay trở về.
Năm sau, đoàn thám hiểm khác nghiên cứu kết quả những đoàn trước đạt được và đi xa hơn đoàn trước một ít. Nhưng
bước tiến của người Bồ Đào Nha thật khó nhọc. Họ đã phải mất 82 năm (1416 –
1498) mới sang được Ấn Độ.
Trong số những
nhà thám hiểm lớn của Bồ Đào Nha, Henri
được coi là một trong những người tiêu biểu nhất. Ông là người thích địa lí,
thiên văn họa đồ, và là người sang lập một số họ phái hang hải. Ông được mệnh
danh là “nhà hang hải”, đồng thời ông cũng là thương nhân lớn chủ trì một số công
ty thương nhân. Những công ty này thành lập với mục đích cướp đoạt những khu vực
mới phát hiện. Henri đã để lại cho đất nước Bồ Đào Nha đội tàu thuyền hiện đại
nhất thời bấy giờ và những nhà hang hải tài ba nhất để chinh phục đại dương.
Dưới thời Henri,
người Bồ Đào Nha đã tiến hành được một vài phát hiện địa lí nhỏ. Năm 1419, họ
phát hiện quần đảo Madora; năm 1432 phát hiện quần đảo Axo; năm 1434 họ đi qua Poatooc và đến những năm 70 của thế kỉ XV thì tìm ra Ghine. Tại những nơi này,
người Bồ Đào Nha đã khai thác mỏ vàng, buôn bán rộng rãi các thứ ngà voi, vàng,
nô lệ, và cung cấp cho người da đen các hang vũ khí, rượu, vải, chuỗi hạt,…
Nhưng Henri không
được chứng kiến một phát hiện lớn lao đã từng làm cho đất nước ông - Bồ Đào Nha
- trở thành bất tử. Năm 1460 ông mất, người Bồ Đào Nha chưa đạt được một kết quả
cụ thể nào trên lĩnh vực địa lí. Sau Henri, Bồ Đào Nha còn tiến hành nhiều cuộc
thám hiểm nữa. Năm 1471, họ tới vùng xích đạo. Năm 1472, họ tới Ghine, nơi tận
cùng của Tây Phi nhô ra biển. Lúc đầu, họ tưởng đây là mỏm cực nam của châu
Phi, nhưng sau đó họ thấy rằng bờ biển còn tiếp tục kéo dài hơn nữa xuống phí
nam. Đến năm 1484, người Bồ Đào Nha dã đến được cửa song Coonggo. Tháng 8 năm
1486, một nhà thám hiểm Bồ Đào Nha là Bactolomi Diaxo đã tiến hành một cuộc thám
hiểm xuống vùng biển nam châu Phi. Cuộc thám hiểm này gặp bão và bị bão thổi bật
xa xuống phía nam và bất ngờ đi tới mũi cực Nam châu Phi – mũi Hảo vọng. Lúc đầu,
Diaxo đặt tên là mũi Bão táp. Tại đây, ông đã nhìn thấy bờ đông Ấn Độ. Nhưng các
thủy thủ của ông nổi loạn buộc ông quay trở lại Bồ Đào Nha, từ bỏ cái vinh dự là
người châu Âu đầu tiên mở đường tới Ấn Độ.
Tuy nhiên, cuộc
viễn chinh của Diaxo đã chuẩn bị mọi điều kiện cho sự thành công trong cuộc viễn
chinh nổi tiến của người Bồ Đào Nha khác, Vaxco do Gama. Cuộc thám hiểm của Gama
là đỉnh cao nhất trong hàng loạt các cuộc thám hiểm của Bồ Đào Nha. Nó hoàn thành
việc tìm đường biển sang Ấn Độ.
Sau đó, đoàn thám hiểm đi lên phía Bắc. Cuối tháng 1 năm 1498, Gama tới của song Zambedo, cắm cột mốc và tuyên bố nơi đây thuộc đất Bồ Đào Nha. Từ cửa song Zambedo cách một vài ngày bơi thuyền,, đoàn thám hiểm đã đến thành phố Modambich, một thành phố buôn bán ở đông nam châu Phi của người A Rập. Tại đây, họ được người A Rập cung cấp nước ngọt, lương thưc và cử hoa tiêu hướng dẫn đoàn tới Ấn Độ. Ngày 1 – 3 – 1498, họ đến Mombaxa, một thành phố buôn bán nô lệ da đen của người A Rập. Người A Rập ở đây coi người Bồ Đào Nha là địch thủ nguy hiểm cần tiêu diệt. Một cuộc xung đột đã xảy ra và đoàn thám hiểm đã may mắn thoát khỏi tai nạn khủng khiếp.
Diaxo
Tham gia cuộc hành trình này có 4 chiến thuyền với khoảng 160 thủy thủ, đặt dưới sự chỉ huy
của Gama, lúc ấy mới 28 tuổi. Ngày 8 tháng 7 năm 1497, đoàn thám hiểm rời cảng
Lixbon và đi vào đảo Mũi lục (Capve), tiến theo lộ trình của Diaxo trước đây. Từ
đảo Mũi Lục đoàn thám hiểm tiến về mũi Hảo Vọng. Gama cho hạm đội của mình đi
xa bờ biển châu Phi từ 1000km – 1500 km để tránh những dòng nghịch lưu bên bờ. Đoàn
thám hiểm cũng đã gặp bão. Bão táp đã thổi họ tới Brazin, mà lúc đó họ tưởng là
một hòn đảo. Bờ biển này 3 năm sau cũng được một người Bồ Đào Nha khác là
Cabran khám phá trên đường đi tới Ấn Độ.
Sau khi vượt qua
xích đạo, đoàn thám hiểm chuyển hướng đi về hướng đông để tới châu Phi. Đến vịnh
Bắc Elena, đoàn thám hiển tiếp tục đi về phía nam dọc theo bờ hoang mạc. Ngày
22 tháng 11 năm 1497, tức là sau 4 tháng rưỡi, đoàn thám hiểm của Gama đã tới
được mũi Hảo vọng để đi vào Ấn Độ Dương. Những khó khăn của cuộc hành trình như
gió, bão, đói,… khiến Gama phải dung những biện pháp kiên quyết và quả cảm mới
có thể trấn áp được sự nổi loạn của thủy thủ để tiếp tục đi về phía trước.
Sau đó, đoàn thám hiểm đi lên phía Bắc. Cuối tháng 1 năm 1498, Gama tới của song Zambedo, cắm cột mốc và tuyên bố nơi đây thuộc đất Bồ Đào Nha. Từ cửa song Zambedo cách một vài ngày bơi thuyền,, đoàn thám hiểm đã đến thành phố Modambich, một thành phố buôn bán ở đông nam châu Phi của người A Rập. Tại đây, họ được người A Rập cung cấp nước ngọt, lương thưc và cử hoa tiêu hướng dẫn đoàn tới Ấn Độ. Ngày 1 – 3 – 1498, họ đến Mombaxa, một thành phố buôn bán nô lệ da đen của người A Rập. Người A Rập ở đây coi người Bồ Đào Nha là địch thủ nguy hiểm cần tiêu diệt. Một cuộc xung đột đã xảy ra và đoàn thám hiểm đã may mắn thoát khỏi tai nạn khủng khiếp.
Gama tiếp tục
cho đoàn thám hiểm củ mình đi tới Malindi, một thành phố cách Modambich khoảng
100km. Từ đây, đoàn thám hiểm đã phải đi 23 ngày đêm trên Ấn Độ Dương trong điều
kiện khí hậu oi búc, Cuối cùng ngày 20 tháng 5 năm 1498 họ đã cập bến Calicut
trên bờ Malaba của Ấn Độ. Đó là trung tâm buôn bán lớn nhất giữa người Ấn Độ với
người A Rập lúc bấy giờ.
Nhưng người A Rập
coi người Bồ Đào Nha là kẻ thù, nên họ đã xúi giục ngời Ấn Độ chống lại người Bồ
Đào Nha. Do vậy, cuộc đàm phám giữa Gama với Đại công Calicut Ấn Độ là Xamolin đã
không thành. Ấn Độ đã không cho người Bồ Đào Nha mua bán hương liệu. Cuộc hội
kiến đầu tiên giữa người Ấn Độ với người châu Âu đã kết thúc bằng một cuộc xung
đột vũ trang. Ngày 30 tháng 9 năm 1498, hạm đội của Gama đã rời Calicut và bắt
đầu nã đại bác vào thành phố này. Dọc đường trở về, người Bồ Đào Nha đa cướp sạch
thuyền bè của người Ấn Độ mà họ gặp, giết những người đi trên thuyền. Thời gian
trở về qua Ấn Độ Dương kéo dài đến 89 ngày. Nhiều thủy thủ bị chết vì bệnh hoại
máu. Ngày 10 – 3 – 1499 họ về tới mũi Hảo vọng và cuối cùng, ngày 18 – 9 -1499,
đoàn thám hiểm đã trở về tới Lixbon. Đoàm thám hiểm đã mang về một số lượng hang
hóa như gia vị, tơ lụa, đá quý, ngà voi,… trị giá gấp 60 lần tiền dung cho cuộc
viễn chinh.
thế là giấc mơ
phát hiện đường biển sang Ấn Độ như thần thoại, cuối cùng đã được thực hiện.
Sau đó, người Bồ Đào Nha giữ độc quyền con đường biển này trong gần 1 thế kỉ, đã
tổ chức nhiều cuộc hang hải mới. Năm 1517, họ đến Trung Quốc và năm 1542 đến Nhật
Bản.
2.
Phát kiến ra châu Mĩ của Crixtop Colombo
Đồng
thời với những cuộc thám hiểm của Bồ Đào Nha, người Tây Ban Nha cũng tiến hành
nhiều cuộc thám hiểm và cũng phát hiện ra nhiều nơi mà trước đó chưa ai biết đến.
Trong lịch sử hang hải, lần đầu tiên họ thực hiện đi vòn quanh quả đất.. Nhìn
chung, những hoạt động thám hiểm của Tây Ban Nha tiến hành trong điều kiện cạnh
tranh với người Bồ Đào Nha. Tuy nhiên, người Tây Ban Nha đi tìm con đường sang
phương Đông khác với người Bò Đào Nha. Họ đặt mục tiêu đi về phía tây chứ không
phải như người Bồ đi về phía Nam, vì họ xuất phát từ giả thuyết quả đất hình tròn.
Cuộc
thám hiểm của Crixtop Colombo đã mở đầu cho những chuyến đi này. Ông là người
thợ dệt ở Gienova (Italia) vào khoảng giữa thế kỉ XV. Khi còn ít tuổi, Colombo đã
từng tham gia nhiều chuyến di biển ở Địa Trung Hải. Năm 1476, ông đến Bồ Đào
Nha với tư cách là một nhà buôn. Sau đó, ông có vài lần đến thuộc địa của người
Bồ Đào Nha. Chẳng hạn như châu Phi ông đã từng sống vài năm ở đảo Malayra và Pooctosangta.
Ông cũng đã tới Anh, Ghine, Cận Đong và nhiều nơi khác. Trong nhật kí, ông ghi
lại rằng ông đã đi biển 23 năm và đã nhìn thấy tất cả từ đông sang tây. Colombo
từng dày công nghiên cứu toán học, thiên văn, họa đồ. Ở Bồ Đào Nha, ông gia nhập
Hội các nhà thủy thủ, than gia các hoạt
động thám hiểm và làm nghề vẽ bản đồ. Vào thời kì này, người Bồ Đào Nha đã thám
hiểm và chinh phục tất cả các bở biển Tây phi cho tới mũi Hảo vọng/



Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét