Thứ Bảy, 15 tháng 2, 2014

Lịch sử cận đại Việt Nam (1897-1918)

I) Đợt khai thác thuộc địa lần thứ nhất 1897 - 1914


Từ cuối thế kỉ XIX, phong trào vũ trang khởi nghĩa từ Nam chí Bắc sau khi Hàm Nghi xuất binh và phát hịch Cần Vương đã tàn lụi dần với sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Hương Sơn (1896). Một số thổ hào địa phương nổi dậy ngay từ khi thực dân Pháp mới đặt chân tới đất nước ta đến nay tuy vẫn còn cố gắng cầm cự, nhưng cũng chỉ đóng khung trong phạm vi nhỏ hẹp từng vùng và trên con đường tan rã.
Từ cuối thế kỉ XIX, phong trào vũ trang khởi nghĩa từ Nam chí Bắc sau khi Hàm Nghi xuất binh và phát hịch Cần Vương đã tàn lụi dần với sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Hương Sơn (1896). Một số thổ hào địa phương nổi dậy ngay từ khi thực dân Pháp mới đặt chân tới đất nước ta đến nay tuy vẫn còn cố gắng cầm cự, nhưng cũng chỉ đóng khung trong phạm vi nhỏ hẹp từng vùng và trên con đường tan rã. Duy có cuộc khởi nghĩa của nông dân Yên Thế do Đề Thám (Hoàng Hoa Thám) lãnh đạo trong tình thế bị bao vây o ép nên đến tháng 12 - 1897 buộc phải đình chiến lần thứ hai với kẻ thù. Thực dân Pháp cố tranh thủ thời gian này chuẩn bị mọi điều kiện chờ ngày triệt hạ pháo đài cuối cùng của phong trào khởi nghĩa của nhân dân ta. Về phía nghĩa quân thì những hoạt động cuối cùng từ 1909 đến 1913 cũng chỉ là những đợt sóng cuối cùng của một cao trào yêu nước chống xâm lược của nhân dân ta mà thôi.
     Thực dân Pháp như vậy về căn bản đã hoàn thành công cuộc bình định Việt Nam về mặt quân sự, và trong bối cảnh đó đã có thể bắt tay vào khai thác thuộc địa Việt Nam nói riêng cũng như Đông Dương nói chung một cách quy mô. 
     Ngày 22-3-1897, Toàn quyền Đông Dương Pôn Đume (Paul Doumer) gửi cho Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp dự án chương trình hoạt động: 
“1. Tổ chức một chính phủ chung cho toàn Đông Dương và tổ chức bọ máy cai trị hành chính riêng cho từng “xứ” thuộc Liên bang. 
2. Sửa đổi lại chế đợ tài chính, thiết lập một hệ thống thuế khóa mới sao cho phù hợp với yêu cầu của ngân sách, nhưng phải dựa trên cơ sở xã hội cụ thể, và phải chú ý khai thác những phong tục, tập quán của dân Đông Dương. 
3. Chú ý xây dựng thiết bị lớn cho Đông Dương, như xây dựng hệ thống đường sắt, đường bộ, sông đào, bến cảng... rất cần thiết cho công cuộc khai thác. 
4. Đẩy mạnh nền sản xuất và thương mại bằng việc phát triển công cuộc thực dân của người Pháp và lao động của người bản xứ. 
5. Bảo đảm phòng thủ Đông Dương bằng việc thiết lập những căn cứ hải quân và phải tổ chức quân đội và hạm đội cho thật vững mạnh.
6. Hoàn thành công cuộc bình định xứ Bắc Kì, bảo đảm an ninh vùng biên giới Bắc Kì. 
7. Khuếch trương ảnh hưởng của nước Pháp, mở rộng quyền lợi của nước Pháp ở vùng Viễn Đông, nhất là ở các nước lân cận". 
     Đume rất am hiểu tình hình Đông Dương vì đã từng là nghị sĩ giữ chức Thượng thư Tài chính trong Chính phủ Pháp và là báo cáo viên những dự án luật thanh toán tạm thời và tổng thanh toán tài chính Bắc và Trung Kì. Chương trình khai thác do Đume vạch ra để thi hành ở Đông Dương (chủ yếu là Việt Nam) từ những năm đầu thế kỉ XX có mục đích tối thượng là biến gấp Đông Dương thành một thuộc địa khai khẩn bậc nhất, bảo đảm siêu lợi nhuận cao nhất cho đế quốc Pháp. 
   Sênô (Jean Chesneaux) trong cuốn Đóng góp vào lịch sử dân tộc Việt Nam đã đánh giá cao Dume: 
“Chính ông đã đưa chế độ thuộc địa từ giai đoạn kinh nghiệm chủ nghĩa hầu như “thủ công" sang giai đoạn tồ chức hệ thống. Chính ông đã tạo dựng bộ máy thống nhất về bóc lột tài chính và đàn áp chính trị trong thực tế sẽ được duy trì nguyên vẹn đến tận 1945” 

1.      Một bộ máy hành chính cai trị chặt chẽ 
     Mới đặt chân sang Việt Nam được vài tuần, Đume đã gửi về Bộ Thuộc địa một bản báo cáo tổng quát về tình hình Đông Dương: 
     “Hiện nay tình hình chinh trị toàn cõi Đông Dương không một nơi nào đáng lo ngại hay quá bi đát. Thực tế, tại nhiều nơi cũng có những khó khăn có thể sẽ trầm trọng thêm; nhân dân toàn xứ đều như đã khuất phục dưới quyền thống trị của chúng ta, nhưng chưa phải đã thấm nhuần tính chất vĩnh viễn của nền đô hộ Pháp và sẵn sàng nắm lấy một thời cơ thuận lợi hay một giây phút yếu đuối của chúng ta để lật đổ ách nặng trên đầu”
     Để phục vụ kịp thời và đắc lực cho công cuộc khai thác và bóc lột kinh tế, Đume chú ý tới hai yếu tố chính trị “chia để trị” và “dùng người Việt trị người Việt”. 
     Một mặt, Đume tìm mọi cách chia cắt đất nước, chia rẽ dân tộc Việt Nam hòng phân tán lực lượng để dễ bề cai trị. Nhưng mặt khác, ông ta lại quan tâm đến sự thống nhất của bộ máy thuộc địa toàn Đông Dương. Đó là sự phức tạp trong tính chất hai mặt của một chính sách thâm độc. 
     Theo sắc lệnh ngày 17-10-1887, thực dân Pháp thành lập Liên bang Đông Dương, năm đó mới bao gồm có Bắc Kì, Trung Kì, Nam Kì và Campuchia, trực thuộc Bộ Hải quân và Thuộc địa. Ngày 19- 4-1899, Tổng thống Pháp ra sắc lệnh sáp nhập thêm Lào vào Liên bang Đông Dương. Việt Nam bị chia cắt làm 8 kì: Bắc Kì, Trung Kì và Nam Kì với ba chế độ cai trị khác nhau. Bắc Kì và Trung Kì là hai xứ bảo hộ vẫn còn giữ lại chính quyền phong kiến về hình thức; Nam Kì là đất thuộc địa hoàn toàn do Pháp nắm cùng với Lào và Campuchia cũng là đất bảo hộ của Pháp, hợp thành Liên bang Đông Dương. Với thủ đoạn này, chúng nhằm xóa bỏ tên Việt Nam, Lào, Campuchia trên bản đồ thế giới. 
     Đứng đầu Liên bang Đông Dư­ơng có Toàn quyền, là người thay mặt chính phủ Pháp cai trị Đông Dương về mọi mặt. Dưới Toàn quyền là Thống đốc Nam Kì, Thống sứ Bắc Kì và Khâm sứ ở Trung Kì, Lào, Campuchia. 
     Cơ quan quyền lực tối cao là Hội đồng tối cao Đông Dương, Chủ tịch Hội đồng là Toàn quyền, các Uỷ viên Hội đồng hầu hết là người Pháp, chỉ có hai người Việt đại biếu cho dân “bản xứ”Các Uỷ viên là giám đốc các công sở, các viên quan cai trị đứng đầu 5 xứ, chủ sự các Phòng Thương mại và Canh nông... 
     Hội đồng họp thường kì mỗi năm một lần để bàn bạc và thông qua ngân sách Đông Dương, ngân sách hàng xứ, cùng các công việc do Toàn quyền đề xuất có liên quan đến việc thống trị và khai thác Đông Dương. 
     Đến năm 1911, đổi thành Hội đồng Chính phủ Dông Dương gồm 23 ủy viên, có 4 người "bản xứ" do Toàn quyền lựa chọn và chỉ định hằng năm (gồm 3 người Việt của 3 xứ và 1 người Campuchia).
     Văn phòng Phủ Toàn quyền gồm có các phòng: Chính trị, Hành chính, Quân sự, Nhân sự và Văn thư là cơ quan thường trực của Phủ Toàn quyền kiêm cả công việc đối ngoại và khen thưởng kỉ luật. Các cơ quan khác có Hội đồng phòng thủ Dông Dương thành lập ngày 31-10-1902; ủy ban Tư vấn về mỏ thành lập ngày 26-5-1913; Hội đồng Tư vấn Học chính Đông Dương thành lập ngày 21-12-1917; Sở chỉ đạo công việc chính trị và bản xứ, Sở tình báo An ninh trung ương (tức Sở mật thám)…
     Việc củng cố chính quyền Liên bang gắn với việc củng cố chính quyền các xứ Thủ đoạn “chia để trị” là một trong những nguyên tắc chỉ đạo hành động của chúng. 
     Nam Kì là đất thuộc địa không có quan hệ phụ thuộc vào Nam triều. Ngày 8-2-1880, Tổng thống Pháp ra sắc lệnh thành lập Hội đồng thuộc địa Nam Kì, quy định rõ chức năng của nó là cơ quan “tư  vấn”, có thể bàn về thuế má, thu chi..., tuyệt đối không đư­ợc đề cập đến vấn đề chính trị. Hội đồng thuộc địa có 16 thành viên (10 Pháp, 4 Việt đã vào “làng Tây”, nói được tiếng Pháp và một số đại biểu của Phòng Thương mại và Hội đồng Tư vấn). 
     Giúp việc cho Thống đốc còn có Hội đồng Tư vấn (Thống đốc chủ tọa và ủy viên người Pháp, 2 ủy viên người Việt do Thống đốc chỉ định và 4 ủy viên dự khuyết Hội đồng hình sự (tức Hội đổng tư vấn thêm 2 quan toà, có quyền hạn đối với cả Campuchia và Lào). Ngoài ra còn có Phòng Thương mại thành lập từ năm 1868 và Phòng Canh nông thành lập từ năm 1897 gồm toàn người Pháp. Đây là tổ chức của “Côlông” (người Pháp sang làm ăn ở Đông Dương) lập nên. Hai phòng này được cử một nghị sĩ vào Nghị viện Pháp. 
     Nam Kì được chia thành 20 tỉnh: Bạc Liêu, Bà Rịa, Bến Tre, Biên Hòa. Cần Thơ, Châu Đốc, Chợ Lớn, Gia Định, Gò Công, Hà Tiên, Long Xuyên, Mỹ Tho, Rạch Giá, Sa Đéc, Sóc Trăng, Tân An, Tây Ninh, Thủ Dầu Một Trà Vinh, Vĩnh Long. Có 2 thành phố: Sài Gòn là thành phố cấp I và Chợ Lớn là thành phố cấp II.
     Đứng đầu tỉnh là công sứ người Pháp. Tỉnh nào lớn có thêm phó công sứ giúp việc cho Chánh, Phó Công sứ có Sở Tham biện và Hội đồng hàng tỉnh.
     Đứng đầu thành phố có Chánh, Phó Đốc lí với Tòa Đốc lí và Hội đồng thành phố (cho thành phố cấp I) hoặc Uỷ ban thành phố (cho thành phố cấp II) Tỉnh có một số trung tâm hành chính hoặc Sở Đại lí. Tính đến năm 1919, Nam Kì có 64 trung tâm hành chính và Sở Đại lí. Đứng đầu các đơn vị này có Đốc phủ sứ, Tri phủ hay Tri huyện. Một số địa phương hoặc khu vực có tầm quan trọng đặc biệt về chính trị hoặc quân sự có Đại lí người Pháp, đại diện trực tiếp của công sứ cai trị.
     Để giúp việc cho bộ máy hành chính cai trị của Pháp, thực dân Pháp vẫn giữ hệ thống chính quyền phong kiến ở dưới làng xã, có xã trưởng, hương trưởng và Hội đồng kì hào. Nam giới có 2 loại: tráng đinh (có tài sản, phải nộp thuế) và bạch đinh (không có tài sản). 
     Trung Kì là xứ bảo hộ, vẫn duy trì "triều đình nhà Nguyễn", nhưng vua An Nam không có "thực quyền". Giúp việc vua có Hội đồng Phụ chính cùng Viện Cơ mật trông coi về đường lối lãnh đạo quốc gia, Viện Đỗ sát kiểm soát hoạt động của quan lại. Còn có Hội đồng Phủ Tôn nhân để quản lí công việc của dòng họ nhà vua. Quyền hành thực sự nằm trong tay Khâm sứ Chủ tịch Hội đồng Bảo hộ Trung Kì. Sau khi ép Thành Thái ra đạo dụ ngày 27-9-1897, toàn bộ quyền cai trị giao cho Tòa Khâm sứ. Hội đồng Phụ chính, Hội đồng Thượng thư đều bãi bỏ. Có Hội đồng Cơ mật gồm 6 bộ (Lại, Hình, Binh, Hộ, Lễ, Học), nhưng mọi quyết định của Hội đồng này đều phải được Khâm sứ thông qua mới chuyển lên nhà vua. Khâm sứ có quyền chủ tọa cả Hội đồng Cơ mật và Hội đồng Phủ Tôn nhân. Mỗi bộ đều có một viên chức Pháp đại diện cho Khâm sứ nắm gọi là Hội líCác quan lại triều đình, từ chánh nhất phẩm đến tòng tam phẩm, triều đình Huế chỉ được bổ dụng sau khi Khâm sứ chuẩn y. Quan lại từ chánh tứ phẩm trở xuống do Khâm sứ bổ nhiệm. 
     Khâm sứ có một Hội đồng giúp việc gồm một số viên chức người Pháp, một đại diện của Phòng Thương mại và Canh nông, hai đại diện của Viện Cơ mật. Việc xử án do một Hội đồng luận án chung cho cả Trung Kì và Bắc Kì đặt tại Hà Nội giải quyết.
     Trung Kì có 14 tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Phan Rang, Bình Thuận, Đắc Lắc, thành phố Đà Nẵng là “đất nhượng địa”. 
     Đứng đầu tỉnh là viên Công sứ người Pháp, có cơ quan Toà Công sứ giúp việc Cũng có các bộ phận công tác khác như ở Nam Kì. Nhưng ở đây (và cả Bắc Kì) vẫn tồn tại hệ thống tổ chức quan lại cũ của Nam triều, đứng đầu tỉnh là Tổng đốc (tỉnh lớn) hoặc Tuần phủ (tỉnh nhỏ), án sát coi việc tư  pháp, Bố chính coi việc thuế khóa, Lãnh binh (tỉnh nhỏ) hoặc Đê đốc (tỉnh lớn) coi việc binh 
     Dưới tỉnh là phủ, huyện, châu (miền núi), có cáo Tri phủ, Tri huyện, Tri châu thay mặt Công sứ và Tổng đốc (Tuần phủ) cai quản từng phủ hoặc từng huyện. Có một số nha thuộc giúp việc như đề lại, lục sự, thừa phái. 
     Tổng là đơn vị hành chính trung gian giữa phủ, huyện với các làng, xã trực thuộc. Một phủ hay huyện có nhiều tổng (thường là dưới 10 tổng) do chánh, phó tổng cai quản. Mỗi tổng quản lí một số làng xã (thường là trên dưới 10 làng xã). 
     Xã và làng (thôn) là cấp cơ sở của chính quyền Nhà nước. Đứng đầu là lí trưởng, phó lí trưởng. Còn có Hội đồng kì hào, kì mục điều hành mọi công việc của làng xã. Chế độ này ở cả ba xứ Việt Nam gần giống nhau. Đume thấy rõ sự lợi hại của nó: “Duy trì trọn vẹn, thậm chí tăng cường cách tổ chức cũ khi mà chúng ta đã thấy đó là một điều tốt. Theo cách tổ chức này thì mổi làng xã sẽ là một nước cộng hoà nhỏ, độc lập trong giới hạn những quyển lợi địa phương .Đó là một tập thể được tổ chức rất chặt chẽ, rất có kỉ luật và rất có trách nhiệm đối với chính quyền cấp trên về những cá nhân thành viên của nó, những cá nhân mà chính quyền cấp trên có thể không cần biết tới, điều đó rất thuận lợi cho công việc của chúng ta" .
     Bắc Kì có cơ quan cai trị cao nhất là Phủ Thống sứ do Thống sứ người Pháp đứng đầu, có Hội đồng Bảo hộ giúp việc. Hội đống này có thể chuyển thành Hội đồng xét xử chung cho cả Bắc Kì và Trung Kì. Còn có thêm hai Phòng Thương mại và Canh nông ở hai thành phố Hà Nội và Hải Phòng được cử đại biểu vào Hội đồng Bảo hộ. Bắc Kì có 26 tỉnh, 35 đại lí và 2 thành phố. 26 tỉnh là Bắc Giang, Bắc Cạn, Bắc Ninh, Hà Đông, Hà Giang, Hải Dương, Hải Ninh, Hà Nam, Hoà Bình, Hưng Yên, Kiến An, Lai Châu, Lạng Sơn, Lào Cai, Nam Định, Ninh Bình, Phúc Yên, Phú Thọ, Quảng Yên, Sơn Tây, Sơn La, Thái Bình, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Vĩnh Yên, Yên Bái. 
     Đến 20-8-1891, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định cắt một số khu vực của một số tỉnh để thành lập tại Bắc Kì 4 đạo quan binh: Phả Lại, Lạng Sơn, Yên Bái, Sơn La. Năm 1916, đặt thêm đạo quan binh thứ 5 gồm Lai Châu và Thượng Lào. Những đạo quan binh này, chú trọng nhiều về việc bố phòng, tiễu phỉ, đàn áp các cuộc nổi dậy chống đối của nhân dân trong vùng. 
     Hệ thống chính quyền của Bắc Kì từ cấp tỉnh trở xuống về đại thể giống như ở Trung Kì. 
     Hầu hết các quan viên nắm quyền cai trị từ cấp xã trở lên đều thuộc giai cấp địa chủ phong kiến, câu kết với thực dân Pháp, làm tay sai cho chúng, tiếp tục áp bức bóc lột nhân dân, nhất là ở các cấp làng xã, phủ huyện, đạo, châu. Còn từ cấp tỉnh , xứ và Liên bang Đông Dương thì quyền lực tập trung vào tay những quan chức người Pháp. Vua tôi nhà Nguyễn chỉ là bù nhìn được hưởng một số phụ cấp lương bổng do thực dân Pháp chi trả. Số công chức người Pháp ở Việt Nam nói riêng và ở Đông Dương nói chung ngày một tăng thêm và chiếm tỉ lệ cao nhất so với thuộc địa của các nước khác. Họ hưởng lương rất cao và hưởng một chế độ hưu trí đặc biệt, trở thành một lớp người sâu mọt đục rỗng ngân sách Đông Dương để làm giàu cho cá nhân. Năm 1907, chỉ riêng Sở Thương chính (Douane) đã có tới 3341 nhân viên, tức là chiếm tỉ lệ 1 người trên số 5000 dân. 
     Số viên chức người Pháp ở Đông Dương năm 1897 là 2860, năm 1902 là 3778, năm 1906 là 4390, năm 1911 là 5683 người
     Vào những năm 20 của thế kỉ này, Đông Dương với 25 triệu dân, có tới 4700 quan chức người Pháp, tương đương với số lượng quan chức người Anh ở ấn Độ, một xứ có 350 triệu dân. Tới những năm 30, số lượng đó tăng gấp 3 lần số công chức người Anh ở Ấn Độ
     Lương và phụ cấp lương của một Tổng đốc người Việt là 800 đồng Đông Dương tương ứng với 750 phơrăng (1 đồng Đông Dương bằng 2,5 phơrăng), bằng lương và phụ cấp lương của một viên thư kí tòa sứ hạng nhì người Pháp, hoặc chỉ bằng một phần ba lương và phụ cấp lương của Công sứ hạng nhì đầu tỉnh. Ngoài tiền lương, họ còn được hưởng những khoản phụ cấp lớn và những khoản cướp đoạt tài sản, xương máu của nhân dân Việt Nam. Một cựu nghị sĩ Pháp sau khi đi thăm Đông Dương về đã than phiền: “So với bọn viên chức thuộc địa thì những tên cướp đường còn là những người lương thiện”.    
      Bên cạnh tổ chức chính quyền cấp cao nhất xuống tận cơ sở, ở mỗi xứ đều có các Nha là chi nhánh của các công sở trung ương, có nhân viên hoạt động tới tỉnh, huyện, xã. Các chi nhánh này tuy đặt bên cạnh chính quyền xứ, tỉnh, song lại thuộc hệ thống dọc chịu sự điều khiển của các công sở trung ương Hệ thống tòa án ở các xứ và tỉnh đều trực thuộc Tổng biện lí bên cạnh Toàn quyền. Cơ quan chính quyền xã chỉ làm việc hòa giải. Chỉ có toà án tỉnh, thành phố và các Tòa án tối cao mới có quyền xử án, xử theo luật của Pháp từ thời kì Napôlêông phối hợp với luật Gia Long, hoàn toàn không có sự hiểu biết đầy đủ về phong tục tập quán Việt Nam. Khi cần khủng bố nhân dân, đàn áp dập tắt các cuộc khởi nghĩa, các hoạt động chống đối chính quyền thuộc địa, chúng thiết lập một Hội đồng đề hình (Toà án đặc biệt) để xét xử. Hội đống này chủ yếu tìm cách làm thật nhiều án chém và án nặng, việc xét xử chỉ làm chiếu lệ. 

     2. Bộ máy quân sự, cảnh sát, toà án và nhà tù 
     Đume mong muốn hoàn thành bình định sớm để "phòng thủ Đông Dương", mở rộng quyền lợi của nước Pháp ở vùng Viễn Đông, nhất là ở các nước lân cận với Đông Dương". Tình hình quốc tế lúc này đang có chiều hướng căng thẳng.Thực dân Anh tăng cường lực lượng ở căn cứ Hương Cảng và Xingapo. Đế quốc Đức có mặt ở Viễn Đông. Quân đội Nhật xâm lược Trung Quốc và nhòm ngó Đông Dương. 
     Thực dân Pháp triệt để thực hiện chính sách "dùng người Việt trị người Việt", dùng binh lính thuộc địa để bảo vệ thuộc địa, hoặc để lấn chiếm thuộc địa. Vì vậy, việc tăng cường lực lượng vũ trang, bắt lính người Việt là cấp bách 
     Ngày 7-7-1900, chúng ra đạo luật về tổ chức quân đội thuộc địa (troupes coloniales) bao gồm vừa binh lính Pháp, vừa binh lính người bản xứ. 
     Ở Việt Nam, lính cơ (milice) là lực lượng bổ sung cho quân đội thuộc địa. Hội đổng phòng thủ Đông Dương do Toàn quyền Đông Dương làm Chủ tịch có quyền huy động quân đội, lập các đạo quan binh, tuyển mộ binh lính và phân bố lực lượng. Trực tiếp điều khiển quân đội ở Đông Dương là viên Tổng chỉ huy người Pháp. Dưới quyền y có Tổng tham mưu trưởng và các viên chỉ huy bộ binh , hải quân, pháo binh.
“Tính đến năm 1897, đội quân viễn chinh đã có:
- 3 liên đội bộ binh gồm 8 đại đội. 
- 4 đại đội và 2 trung đội lê dương. 
     Phân phối như sau: 10 đại đội ở Bắc Kì, 2 đại đội ở Nam Kì, 2 trung đội ở Trung Kì. 
     Về quân lính bản xứ, con số cũng tăng nhiều:
- 3 liên đội pháo thủ Bắc Kì có 13 đại đội, đóng ở Bắc Kì.
- 1 liên đội pháo thủ Trung Kì có 3 đại đội đóng ở Nam Kì. 
     Súng ống trang bị cho quân lính được tăng cường, có các binh chủng mới như pháo binh (bắt đầu từ 1899), kị binh (1900), công binh (1903), đội cầu, thông tin, vẽ bản đố... bổ sung thêm tướng tá, lấy binh lính bản xứ ngày một đông, tổ chức những đội quân dự trữ (1898), tăng cường lính da đen châu Phi (cuối 1900); lập phòng tuyển lính và dự trữ ở Hà Nội, Sài Gòn (1901).

     Lúc bấy giờ, dưới quyền Tổng chỉ huy quân đội Pháp đã có đến 3 Thiếu tướng, Tổng cục trưởng hậu cần, Giám đốc quân y, Đại tá chỉ huy pháo binh, Đại tá chỉ huy công binh. 
     Về hải quân, có phân nhánh hạm đội Nam Kì và hải quân công xưởng Sài Gòn dưới quyền chỉ huy của một Đại tá hải quân; hải cảng Hồng Gai và Quảng Châu Loan do  Trung tá hải quân chỉ huy, cả hai đều đặt dưới quyền một Thủy sư đô đốc chỉ huy tối cao hạm đội Viễn Đông, có chân trong Hội đồng phòng thủ Đông Dương 


II) Phong trào yêu nước - cách mạng Việt Nam đầu thế kỉ XX

1. Phan Chu Trinh với xu hướng cải cách


Xu hướng cải cách ở nước ta được báo hiệu khoảng năm 1902 khi xuất hiện tác phẩm Văn minh tân học sách (tác phẩm vô danh). Trong tác phẩm này, lần đầu tiên xuất hiện một tư tưởng mới lạ là muốn chấn hưng dân trí, dân khí, phải bắt đầu bằng con đường cải cách, chủ yếu là về kinh tế và văn hóa (với 6 biện pháp gọi là 6 đường).
Xu hướng cải cách ở nước ta được báo hiệu khoảng năm 1902 khi xuất hiện tác phẩm Văn minh tân học sách (tác phẩm vô danh). Trong tác phẩm này, lần đầu tiên xuất hiện một tư tưởng mới lạ là muốn chấn hưng dân trí, dân khí, phải bắt đầu bằng con đường cải cách, chủ yếu là về kinh tế và văn hóa (với 6 biện pháp gọi là 6 đường).
Phan Châu Trinh (1872-1926), hiệu là Tây Hồ, là một sĩ phu tư sản hóa, có đường lối, thủ pháp cách mạng trái ngược với Phan Bội Châu. Ông đỗ Phó bảng năm 1901, cự tuyệt con đường quan trường, lại sống tại một vùng giao thương với nước ngoài phát triển là Quảng Nam- Đà Nẵng, Phan Châu Trinh không chỉ chịu ảnh hưởng Tân thư, ảnh hưởng của Nguyễn Lộ Trạch (tác giả Thiên hạ đại thế luận) mà còn chịu ảnh hưởng của nhiều nhà dân chủ tư sản Pháp, Ấn Độ.
Tháng 8-1906, sau khi từ Nhật Bản về, Tây Hồ viết Thư ngỏ gửi Toàn quyền Pôn Bô (Paul Be au) và lập tức trở thành thủ lĩnh của xu hướng cải cách trong cả nước. Ông chủ trương dựa vào người Pháp đánh đổ giai cấp phong kiến, phát triển kinh tế TBCN ở nước ta, rồi mới tính đến độc lập. Ông gọi đó là kế sách "ỷ Pháp cầu tiến bộ", tiến hành song song duy tân, đánh đổ chế độ phong kiến, quan trường.
Ở nước ta lúc đó cũng không ít người nghĩ như vậy và trở thành đồng chí của ông như Lương Văn Can, Nguyễn Quyền, Lê Đại, Đào Nguyên Phổ (Bắc Kỳ), Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức Kế, Nguyễn Thượng Hiền (Trung Kỳ), Trần Chánh Chiếu, Nguyễn An Hưởng (Nam Kỳ). Nhưng Phan Châu Trinh cũng như các sĩ phu cải cách, không ai nghĩ tới một đảng chính trị cho xu hướng của mình. Điều này đã phần nào quyết định tính cách, bước đi của xu hướng này.
Trước hết, ở địa bàn trung tâm là Trung Kỳ từ 1906 đến 1908, Phan Châu Trinh trực tiếp lãnh đạo phong trào Duy Tân và phong trào chống thuế. Để cổ vũ cho lối học thực nghiệp, từ năm 1906, Phan Châu Trinh cho thành lập hàng chục trường dạy chữ Quốc ngữ, chữ Pháp, văn hóa kỹ thuật, lớn nhất là trường Diên Phong.
Các sĩ phu cải cách cũng rất chú trọng phát triển kinh tế, lập ra các hội buôn (lớn nhất là ở Hội An, Phan Thiết với Liên Thành thương quán nổi tiếng), kinh doanh hàng dệt vải, lâm sản (quế, chè), nông sản (gạo, ngô, sắn), hải sản... giao thương cả với nước ngoài.
Hoạt động sôi động hơn cả là trên lĩnh vực tư tưởng, sinh hoạt, với khẩu hiệu để răng trắng, cắt tóc ngắn, ăn vận theo lối mới, họ tiến tới phê phán gay gắt biểu trưng của chế độ phong kiến như xé áo lam, giật bài ngà...Từ phong trào cắt tóc khi lan xuống nông thôn, đã dần biến thành phong trào kháng thuế của nông dân. Từ Hội An, Đại Lộc (Quảng Nam) phong trào lan xuống Phú Yên, Khánh Hòa, lan ra Hà Tĩnh, Thanh Hóa, bao vây các phủ huyện, có khi bắt đi cả quan chức địa phương, đòi giảm sưu thuế, thậm chí có nơi còn cướp chính quyền ở địa phương...
Đến đây, phong trào đã vượt khỏi sự kiểm soát của các sĩ phu cải cách. Thực dân Pháp đã lợi dụng sự kiện này, thẳng tay đàn áp phong trào Duy Tân Trung Kỳ. Một số sĩ phu bị chém như Trần Quý Cáp, Lê Khiết và hàng chục người bị án lưu đày ở Côn Đảo như Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức Kế…
Ở Bắc Kỳ, sự ra đời Đông Kinh nghĩa thục tại Hà Nội có thể coi là sự nối dài của phong trào Duy Tân. Ở đây, Lương Văn Can, Nguyễn Quyền được sự ủng hộ của Hoàng Tăng Bí, Dương Bá Trạc, Lê Đại, Võ Hoàng, Phạm Duy Tốn... học theo kinh nghiệm của Nhật Bản đã mở trường tư thục tháng 3-1907.
Trường chủ trương dạy theo lối mới, chú trọng khoa học tự nhiên, học sinh học bằng chữ Quốc ngữ, Hán và Pháp văn. Ban Giáo dục gồm nhiều nhân vật nổi tiếng như Nguyễn Thượng Hiền, Hoàng Tăng Bí, Dương Bá Trạc, Lê Đại, Nguyễn Văn Vĩnh... Phan Châu Trinh là người thường xuyên góp ý và trực tiếp giảng dạy. Số học sinh lên tới 1000 người, có già trẻ, trai gái và được chia thành 8 lớp. Nhà trường thường cho học sinh đi ngoại khóa, tham gia các cuộc bình giảng thơ văn, nói chuyện với dân chúng.
Ngoài Ban Giáo dục, trường còn có 3 ban khác: Ban Tài chính, Ban Cổ động và Ban Trước tác.
Ban Cổ động lo việc kêu gọi dân chúng chống bọn hủ Nho (Văn tế sống hủ Nho, Điếu hủ Nho...), cổ động ra báo Quốc ngữ. Chính Ban này có sáng kiến mua lại bản quyền tờ Đại Nam đồng văn nhật báo, tờ báo chữ Hán đầu tiên ở Hà Nội, cho tục bản thành tờ Đăng cổ tùng báo (chữ Quốc ngữ, chữ Hán) vừa là cơ quan ngôn luận của trường, vừa tuyên truyền những tư tưởng cải cách.
Ban Trước tác, thực chất là một nhà xuất bản đầu tiên của xứ Bắc Kỳ, đã phụ trách việc xuất bản một loạt sách bổ ích cho nâng cao dân trí, cổ động cho tinh thần dân tộc.
Hàng chục sách dịch hoặc do các tác giả thân tín của nhà trường viết bao gồm lịch sử (Việt Nam và thế giới), địa lý, văn học ... được xuất bản ngay từ những tháng đầu trường mới hoạt động. Nhiều cuốn sách đã trở thành những tác phẩm đầu tiên bằng Quốc ngữ in ở Hà Nội như Quôc dân độc bản, Nam quốc giai sử, Việt Nam Quốc sử lược, Nam quốc địa dư, Quốc văn giáo khoa thư…; đặc biệt đã xuất hiện những tác phẩm khuynh tả như Tiếng cuốc kêu (Việt Quyên), Thiết tiến ca (Nguyễn Phan Lãng), Bài ca vận động lính tập làm chấn động lòng người.
Cuối cùng, tháng 11-1907, thực dân Pháp quyết định cho đóng cửa trường này. Về Đông Kinh nghĩa thục, Đặng Thai Mai đánh giá nó như là một một cuộc cách mạng văn hóa đầu tiên. Ông viết: “Đông Kinh nghĩa thục không chỉ là một trường tư thục, không chỉ là một cơ quan giáo dục thuần túy…Đông kinh nghĩa thục là con số tổng cộng những cố gắng của mọi người có ý chí tư tưởng, văn chương ra phục vụ Tổ quốc. Nó là cả một phong trào, một thời đại…”(4).
Phong trào Duy Tân ở Nam Kỳ diễn ra có vẻ lặng lẽ hơn dưới cái tên Cuộc Minh tân, tập trung vào những hoạt động kinh tế.
Ngoài Sài Gòn ra, nhiều tỉnh ở vùng đồng bằng sông Cửu Long như Mỹ Tho, Vĩnh Long, Sa Đéc, Cần Thơ, Tây Ninh, Biên Hòa... đã mọc lên các khách sạn (Nam Trung khách sạn ở Sài Gòn, Minh Tân khách sạn ở Mỹ Tho...), các cơ sở công nghệ (dệt, làm xà phòng, may mặc...), các hội Tương tế và đặc biệt một số công ty như Minh Tân công nghệ xã, Nam Kỳ thương cuộc...
Phong trào Duy Tân cải cách lắng xuống từ cuối năm 1908, sau phong trào chống thuế. Phan Châu Trinh, năm 1911, được Pháp thả ra để mị dân, đã sang Pháp sinh sống và hoạt động suốt 14 năm (1911 - 1925). Cuối năm 1925, thực dân Pháp để ông về Sài Gòn với dã tâm lợi dụng tư tưởng cải lương của ông đã bị thời đại vượt qua, khi cao trào yêu nước và dân chủ đang lên mạnh do các đảng phái chính trị tiểu tư sản có tính khuynh tả lãnh đạo.
Phan Châu Trinh từ trần ở Sài Gòn tháng 3-1926. Ông là nhà dân chủ lớn nhất ở nước ta lúc đó, nhiều tác phẩm nổi tiếng của ông để lại như Sùng bái giai nhân truyện, Xăngtê thi tập, Luân lý và đạo đức Đông Tây…làm phong phú thêm văn học, lịch sử tư tưởng cận đại của nước ta.

2. Phan Bội Châu với xu hướng bạo động

Phan Bội Châu (1867 - 1940), hiệu là Sào Nam, một nhà Nho danh tiếng của xứ Nghệ, thuộc thế hệ cuối cùng của các sĩ phu Cần Vương, được giác ngộ tư tưởng mới và trở thành người cầm đầu một phong trào yêu nước và cách mạng, đi đầu trong phong trào dân tộc suốt 20 năm đầu thế kỷ.
Phan Bội Châu (1867 - 1940), hiệu là Sào Nam, một nhà Nho danh tiếng của xứ Nghệ, thuộc thế hệ cuối cùng của các sĩ phu Cần Vương, được giác ngộ tư tưởng mới và trở thành người cầm đầu một phong trào yêu nước và cách mạng, đi đầu trong phong trào dân tộc suốt 20 năm đầu thế kỷ.
Năm 1886, khi chưa đầy 20 tuổi, Sào Nam đã tập hợp sĩ tử ủng hộ các thủ lĩnh Cần Vương như Phan Đình Phùng, Nguyễn Xuân Ôn. Tuy vậy, cũng phải chờ đến năm 1900, khi đã có danh vọng đỗ đạt, yên việc gia đình, ông mới thực sự đi vào con đường tranh đấu.
Ở Huế từ năm 1897, được Nguyễn Thượng Hiền giới thiệu Tân thư của Khang Lương, đặc biệt năm 1902 nhân các chuyến ra Bắc vào Nam, Phan Bội Châu đã có sự chuyển biến mạnh về tư tưởng. Với uy tín cá nhân sẵn có, ông nổi lên như một gương mặt chính trị sáng giá nhất. Từ đó, phong trào cách mạng của ông tính đến cuối Chiến tranh thế giới thứ nhất có thể chia ra 2 thời kỳ sau:
Thời kỳ Duy Tân hội và phong trào Đông Du ( 1904 - 1908)
Ở Việt Nam, "Phan Bội Châu là người đầu tiên đã thành lập một đảng chính trị theo ý nghĩa hiện đại của từ này"(2). Tháng 5 - 1904, tại Quảng Nam, Phan Bội Châu cùng với Tăng Bạt Hổ, Nguyễn Thành (tức ấm Hàm), Đặng Thái Thân, Đặng Tử Kính, Đỗ Tuyển . .. đã tuyên bố thành lập Duy Tân hội, "cốt sao khôi phục Việt Nam độc lập, ngoài ra chưa có chủ nghĩa gì khác"(3). Thực ra, tư tưởng chính trị của Hội cũng khá rõ với việc tôn cường để làm Hội chủ. Ý tưởng về một chế độ quân chủ lập hiến đã lộ ra.
Duy Tân hội đề ra 3 nhiệm vụ: Phát triển hội viên, tài chính, chuẩn bị cho bạo động vũ trang và xuất dương cầu viện (sau đó gọi là phong trào Đông Du, hướng sang Nhật Bản).
Đây là những năm tháng Phan Sào Nam tự cho là "đắc ý nhất". Từ sau chuyến đi Nhật đầu tiên năm 1905 cùng Đặng Tử Kính, được sự giúp đỡ của Lương Khải Siêu, Khuyển Dưỡng Nghi, Đại Ôi Trọng Tín -những nhân vật nổi tiếng của Trung Hoa và Nhật Bản, Phan Bội Châu đã cùng Duy Tân hội dấy lên phong trào Đông Du, tuyển chọn ngót 200 du học sinh Việt Nam, bí mật xuất dương qua Nhật Bản học khoa học kỹ thuật và quân sự.
Ở trong nước Phan Bội Châu lên Phồn Xương (Yên Thê), bản doanh của Đề thám, bàn việc phối hợp với các hoạt động vũ trang, thực hiện kế sách trong đánh ra, ngoài đánh vào khi có cơ hội. Đây cũng là lúc, trường Đông Kinh nghĩa thục bắt đầu xuất bản nhiều tác phẩm của Phan viết ở Nhật Bản, như hải ngoại huyết thư, Việt Nam vong quốc sử ...
Năm 1908, diện hoạt động của phong trào Đông Du đã lan rộng khắp nước, cùng những hoạt động quyên góp về kinh tế công khai. Điều đó không tránh khỏi sự phát hiện của mật thám Pháp. Tháng 9-1908, thực dân Pháp đã thương lượng với chính phủ Nhật ra lệnh giải tán những tổ chức chống Pháp trên đất Nhật, trục xuất số du học sinh Việt Nam.
Thời Kỳ Việt Nam Quang phục hội (VNQPH) và những hoạt động vũ trang sôi động trước và trong chiến Tranh thế giới thứ nhất.
Cách mạng Tân Hợi 1911 thành công mở ra một trang mới cho cuộc đời hoạt động cách mạng của Phan Bội Châu. Mô hình “Trung Hoa dân quốc” và đảng cách mạng đã lôi cuốn ông và ông đã hoàn toàn vứt bỏ những gì còn lại của tư tưởng phong kiến, thực sự trở thành người cộng hòa. Năm 1912, ông hối hả về Quảng Đông, tập hợp lực lượng cách mạng và tháng 2 năm đó, tại nhà Lưu Vĩnh Phúc, ông đã tuyên bố thành lập Việt Nam Quang phục hội.
Đây thực sự là một đảng chính trị kiểu hiện đại, với tôn chỉ, chống Pháp giành độc lập, lập ra nước Cộng hòa dân quốc Việt Nam. VNQPH đã đề ra cả bộ máy Việt Nam quân chính phủ gồm Bộ Tổng vụ, Bộ Bình nghị, Bộ Chấp hành và lập ra Quang phục quân, do những thanh niên trẻ tốt nghiệp các trường quân sự Nhật Bản, Trung Hoa như Hoàng Trọng Mậu, Đặng Xung Hồng, Lương Lập Nham... phụ trách.
Phan Bội Châu đã cùng các chí sĩ Trung Hoa lập ra Chấn Hoa hưng Á, tạo thêm uy tín quốc tế. VNQPH còn thông qua quốc kỳ tương lai, phát hành quan dụng phiếu ...
Phan Bội Châu đặc biệt coi trọng việc xây dựng “chiến lược biên giới", phong trào 100 tay súng, nối các cơ sở VNQPH từ Vân Nam về nước, đồng thời phát triển mạnh cơ sở trong nước.
Trước và trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, mặc dù có một thời gian Phan Bội Châu, Mai Lão Bang bị bọn quân phiệt Trung Hoa bắt giam, nhưng những hoạt động vũ trang vẫn liên tục, mạnh mẽ, gây cho thực dân Pháp nhiều tổn thất. Nam 1913, sau vụ ném bom ở Thái Bình diệt Tướng phủ Nguyễn Duy Hàn, Ở Hà Nội diệt 2 sĩ quan Pháp, VNQPH đã tổ chức các trận đánh dọc tuyến biên giới phía bắc như tấn công đồn Tà Lùng, Bình Liêu.
Nhưng quan trọng hơn cả là VNQPH đã lãnh đạo nhiều cuộc khởi nghĩa lớn ở các địa bàn trọng yếu. Đó là Cuộc khởi nghĩa của vua Duy Tân tháng 5-1916 được coi là cố gắng lớn nhất của VNQPH trong những kế hoạch vũ trang lúc đó, thu hút được nhiều nhân vật nổi tiếng ở Trung Kỳ như Thái Phiên, Trần Cao Vân, Lê Nhung, Lê Đình Dương ..., đặc biệt có sự tham gia của vua Duy Tân. Trong kế hoạch khởi nghĩa, VNQPH còn lợi dụng sứ quán Đức ở Xiêm để có thêm vũ khí chống Pháp. VNQPH dự định dựa vào 2500 lính tập ở Huế, 1500 lính tập ở Đà Nẵng tiến hành khởi nghĩa ở kinh thành Huế và phần lớn các tỉnh miền Trung.
Khởi nghĩa của vua Duy Tân cũng như nhiều cuộc khởi nghĩa thời bấy giờ thường bị hạn chế về nghệ thuật chỉ đạo, không giữ được bí mật kế hoạch khởi nghĩa. Vì vậy, thực dân Pháp kịp thời cấm trại, tịch thu vũ khí của số lính tập, bắt nhiều nhân vật chủ chốt ở cả hai trung tâm khởi nghĩa là Huế và Đà Nẵng. Vua Duy Tân cũng bị bắt khi trốn đến chùa Thiên Mụ. Ngày 17-5-1916, Thái Phiên, Trần Cao Vân và nhiều người trong đội thị vệ của Duy Tân bị chém ở Huế. Sau đó, Phạm Thành Tài và hàng chục chiến sĩ VNQPH ở Quảng Nam bị tử hình. Riêng vua Duy Tân bị lưu đày ở đảo Rêuyniông.
Cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên (30-8-1917 đến 2-1-1918) do Đội Cấn (Trịnh Văn Cấn) và Lương Ngọc Quyến lãnh đạo cũng được coi là trang sử vẻ vang của VNQPH.
Lương Ngọc Quyến, yếu nhân của VNQPH, vốn bị Pháp bắt ở Hương Cảng và bị cấm cố ở nhà giam Thái Nguyên. Chính ông đã giác ngộ và lôi cuốn Đội Cấn vào tổ chức và chuẩn bị khởi nghĩa. Là nhà quân sự, ông đã cùng Đội Cấn tận dụng thời cơ và giữ được bí mật đến phút chót. Từ trại lính khố xanh, đội quân khởi nghĩa của Đội Cấn đêm 30-8-1917 đã phá nhà tù, chiếm nhiều vị trí quan trọng của tỉnh dưới cờ Nam binh phục quốc. Lực lượng nghĩa quân đông tới ngót 400 tay súng, không kể nhân dân, thợ mỏ ở Phấn Mễ.
Quân khởi nghĩa. đã chiếm giữ thành phố tới ngày 4-9 và tuyên bố lập nước. "Đại Hùng". Sai lầm chiến thuật của họ là trụ lại trong thành phố, không phân tán và phát triển thêm lực lượng. Trong khi đó, sau choáng váng ban đầu, Hội đồng quân sự Đông Dương đã cùng Công sứ Bắc Kỳ tập trung mọi lực lượng quân sự của các tỉnh phía bắc và Hà Nội phản kích quyết liệt.
Trưa ngày 5-9-1917, Thái Nguyên lọt vào tay giặc, nhưng 107 lính Pháp, lính khố đỏ đã bị tiêu diệt. 50 nghĩa quân đã anh dũng hy sinh (trong đó có Lương Ngọc Quyến) và gần 100 người bị bắt. Riêng Đội Cấn cùng vài chục người còn lại phá vây, di chuyển trong vùng rừng núi Đại Từ, đã chiến đấu đến người cuối cùng và hy sinh ngày 11-1-1918.
Khởi nghĩa của Đội Cấn là cuộc binh biến đầu tiên trong thời cận đại, người Pháp dù thế nào cũng không thể hoàn toàn thắng lợi trong thủ đoạn "dùng người Việt đánh người Việt".
Đối với Phan Bội Châu và VNQPH, cuộc khởi nghĩa này có thể coi là sự chấm dứt thời kỳ đấu tranh vũ trang hào hùng. Sau chiến tranh, đường lối của phong trào cách mạng sẽ phải khác đi và có nhiều điều lịch sử đã vượt qua tầm nhìn của ông.
Đầu những năm 1920, Phan Bội Châu dần dần tìm đến với nguồn sáng của Cách mạng tháng Mười Nga, của Lênin. Giao thiệp với Sứ quán nước Nga ở Bắc Kinh, Phan Bội Châu hứa gửi cán bộ sang đào tạo ở Mátxcơva. Ông đã dịch sách ca ngợi Cách mạng tháng Mười và Liên Xô. Đặc biệt khi Nguyễn Ái Quốc xuất hiện ở Quảng Châu cuối tháng 12- 1924, ông đã liên hệ và hứa bàn bạc với nhân vật trẻ tuổi của phong trào cách mạng mới, hứa hẹn cải tổ đảng mình. Ý định tốt đẹp đó chưa kịp thực hiện thì ông đã bị mật thám Pháp bắt ở Thượng Hải vào tháng 6-1925. Từ cuối năm 1925, Pháp buộc phải xóa án tử hình ông, nhưng ông bị giam lỏng ở Huế cho đến lúc mất (1940).
Phan Bội Châu không chỉ là linh hồn của phong trào cách mạng đầu thế kỷ XX mà còn là nhà văn hóa lớn. Ít ai có thể viết nhiều sách đủ thể loại và nhiều giá trị như ông ở thời điểm đó: Việt Nam vong quốc sử, Tự phán (tức Phan Bội Châu niên biểu), Xã hội chủ nghĩa, Khổng học đăng, Phạm Hồng Thái truyện ... và nhiều tác phẩm về văn, thơ đủ thể loại, viết chủ yếu bằng chữ Hán.

III. Việt Nam trong chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 - 1918)

Tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam Ngày 1-8-1914, Chiến tranh thế giới lần thứ nhất bùng nổ. Đó là cuộc chiến tranh đế quốc nhằm chia lại thị trường. Ngay từ khi chiến tranh bùng nổ, Đông Dương đã trở thành đối tượng để vơ vét sức người, sức của của thực dân Pháp.


1. Tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam
Ngày 1-8-1914, Chiến tranh thế giới lần thứ nhất bùng nổ. Đó là cuộc chiến tranh đế quốc nhằm chia lại thị trường. 
     Ngay từ khi chiến tranh bùng nổ, Đông Dương đã trở thành đối tượng để vơ vét sức người, sức của của thực dân Pháp. Ngoài "thuế má” và các thứ thuế khác, nhân dân Việt Nam còn phải mua phiếu quốc trái và đóng tiền quyên góp các loại với một số lượng khổng lồ mỗi năm tới 450.000.000 Phơrăng, nhiều nhất so với các thuộc dịa khác của Pháp. 
     Những chiến dịch "săn người" của chính quyền thuộc địa đã bắt hàng trăm ngàn thanh niên Đông Dương, chủ yếu là Việt Nam, sang chết thay cho lính Pháp trên các chiến trường Châu Âu. 
     Nếu đem so sánh với các thuộc địa khác của Pháp, riêng số lính thợ Đông Dương phải cung cấp đã chiếm 1/4 tổng số lính thợ trong tất cả các thuộc địa của Pháp là 183.928 người, đứng đầu các thuộc địa. 
    Để phục vụ cuộc chiến ở Châu Âu, trong bốn năm chiến tranh, thực dân Pháp đã khai thác ở Việt Nam hàng vạn tấn quặng kim loại quý hiếm như kẽm, chì, thiếc, kền, nhôm, ăngtimoan, 336.000 tấn nông lâm sản các loại. 
     Công nghiệp thuộc địa phải gánh đỡ cho công nghiệp chính quốc vốn bị đình đốn do chiến tranh. Các ngành chế biến gỗ, rượu cồn, hóa chất... cần cho việc chế tạo vũ khí, quân nhu... đều gia tăng. 
     Nông nghiệp từ chỗ chuyên canh cây lúa đã chuyển một phần sang trồng những cây công nghiệp phục vụ chiến tranh như thầu dầu, đậu, lạc. Cây cao su được đặc biệt chú ý khai thác, sản lượng từ 200 tấn năm 1914 tăng lên 931 tấn năm 1917. Năm 1916, chính quyền Đông Dương ra lệnh tăng diện tích trồng thầu dầu để mỗi năm có thể xuất cảng sang Pháp 3.000 tấn hạt. 
    Chính sách bắt dân phá lúa trồng thầu dầu, trồng bông, nạn bắt lính, bắt mua công trái, bắt uống rượu do nhà nước thực dân nấu, nạn quyên góp cho "mẫu quốc"... đã khiến cho nông nghiệp Việt Nam khốn đốn, tiêu điều. Đời sống của nông dân vô cùng bi đát. Trong suốt bốn năm chiến tranh người nông dân bị bần cùng một cách ghê gớm.  
     Ảnh hưởng sâu sắc nhất của chiến tranh đối với nền kinh tế Việt Nam rõ nhất là trong thương nghiệp. Do chiến tranh nên việc độc chiếm thị trường của Pháp ở Đông Dương có phần bị hạn chế. Hàng hoá từ Pháp sang Việt Nam giảm sút nghiêm trọng, từ 58 triệu Phơrăng xuống còn 30 triệu Phơrăng, trong khi đó hàng hoá xuất từ Việt Nam sang các nước khác trong khu vực lại có phần tăng lên. Nội thương và giao thông vận tải có điều kiện phát triển khiến cho tư sản Việt Nam hoạt động trong các ngành ngày càng có cơ hội để lớn lên, nằm ngoài ý muốn của thực dân Pháp. 
     Do đó, cơ cấu xã hội Việt Nam trong những năm chiến tranh đã có nhiều thay đổi. 
+ Lực lượng sản xuất ở nông thôn bị giảm sút (do chế độ bắt lính, bắt phu tàn bạo). 
+ Công nhân gia tăng về số lượng (riêng ngành mỏ từ 12.000 năm 1913 tăng lên 17.000 năm 1916). Công nhân làm việc trong các xí nghiệp tư bản Việt Nam cũng tăng lên. Công ty Bạch Thái Bưởi có lúc sử dụng tới 1.000 công nhân. 
+ Tầng lớp tiểu tư sản thành thị ngày càng đông đúc cùng với việc xuất hiện ngày càng nhiều trung tâm hành chính, công thương nghiệp và dịch vụ. 
+ Tranh thủ thời gian Pháp nới lỏng độc quyền, tư sản Việt Nam cố gắng len lỏi vươn lên. Một số tư sản ra đời từ trước như Nguyễn Hữu Thu, Phạm Văn Phi... đẩy mạnh hoạt động. Một số tiểu chủ, tiểu thương vươn lên hàng tư sản như Lê Quang Long ở La Khê (Hà Đông), Bùi Tường ở  Hoà (Hà Đông), Lê Văn Nghị ở Nam Trực (Nam Định). Họ hoạt động chủ yếu trong công thương nghiệp, giữ được vai trò đáng kể trong một số ngành kinh doanh. 
    Tuy có sự lớn lên ít nhiều về kinh tế, song nhìn chung, trong thời gian chiến tranh, tư sản dân tộc Việt Nam lại yếu hơn so với những năm đầu thế kỷ XX về ý thức dân tộc 
     Nắm được những nhược điểm của giai cấp tư sản Việt Nam, thực dân Pháp đã kết hợp nhiều thủ đoạn vừa đe doạ, vừa dụ dỗ mua chuộc tầng lớp thượng lưu trí thức bản địa. Bằng việc đề ra một số cải cách lừa bịp, đề cao uy thế của bọn bù nhìn Nam triều, bằng cuộc vận động cải lương hương chính, bằng các biện pháp phát triển văn hoá giáo dục nô dịch, mị dân... và bằng cả các biện pháp thẳng tay đàn áp các phong trào yêu nước..., thực dân Pháp đã cố gắng khống chế về tinh thần, kết hợp với trấn áp bằng vũ lực các cuộc nổi dậy của nhân dân Việt Nam. 
    Chính sách thống trị của thực dân Pháp trong thời kỳ chiến tranh đã gây nên những phẫn nộ, bất bình trong dân chúng Đông Dương.
  2. Phong trào đấu tranh trong thời gian Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918) 
      Hoạt động trở lại của Việt Nam Quang phục hội
     Trước khi chiến tranh bùng nổ, nhất là từ khi Phan Bội Châu bị chính quyền Lưỡng Quảng bắt giam, Việt Nam Quang phục hội bị tan rã. Tuy nhiên, nhiều hội viên của hội còn rất hăng hái.
     Tháng 9-1914, Đỗ Cơ Quang (có tài liệu ghi là Đỗ Chấn Thiết) tập hợp 50 hội viên ở Vân Nam (Trung Quốc) lập cơ sở chế bom ở Hà Nội, tiến hành vận động binh lính, chuẩn bị bạo động. Nguyễn Hắc Sơn làm phản, kế hoạch bị bại lộ, Đỗ Cơ Quang cùng 58 người khác bị bắt. 
     Cuối năm 1914, đầu năm 1915, một số người yêu nước ở Phú Thọ đã tổ chức cuộc tấn công vào trại lính khố xanh nhưng thất bại, 238 người bị bắt, 47 người bị kết án, trong đó 28 án tử hình. 
    Cũng thời gian này, những hội viên Việt Nam Quang phục hội đã tổ chức cuộc đánh đồn Nho Quan (Ninh Bình), đồn Móng Cái, đồn Lục Nam (l0-1914) nhưng đều không thành công. 
    Đầu năm 1915, một số yếu nhân trong Quang phục hội ở nước ngoài tổ chức tập kích Móng Cái và đánh đồn Tà Lùng (Cao Bằng) ngày 13-3-1915. Sau 45 phút chiến đấu, nghĩa quân không phá được đồn, phải rút lui. 
     Tháng 9-1915, ở Lao Bảo, nơi giam giữ các loại "tù quốc sự" xảy ra vụ bạo động giết lính phá ngục. Ở đây có gần 200 tù nhân, trong đó có những hội viên tích cực của Việt Nam Quang phục hội như Liêu Thanh, Hồ Bá Kiện (thân sinh Hồ Tùng Mậu). 
    Trong những tháng tiếp theo còn nổ ra một số cuộc đánh đồn khác như cuộc đánh đồn Bát Sát (Lào Cai) ngày 8-8- 1916, đồn Đồng Văn (Hà Giang) ngày 3-3-1917, đồn Mường Thương (Lào Cai) ngày 7-2-1918... tất cả đều nằm trong kế hoạch của Quang phục hội hoặc chịu ảnh hưởng của hội, nhưng nhìn chung, không mấy kết quả. 
     Sau những cuộc bạo động nói trên, chính quyền thực dân ở Đông Dương đã thẳng tay đàn áp. Nhận lời yêu cầu của Pháp, chính quyền Trung Hoa, Anh và Xiêm đã bắt, giao cho chúng nhiều ng­ười yêu nước Việt Nam. 
     Những cố gắng cuối cùng và sự thất bại của các hội viên Việt Nam Quang phục hội đã chứng tỏ đường lối của tổ chức này chưa đáp ứng được yêu cầu của phong trào cách mạng Việt Nam lúc đó. Tuy vậy, trong hoàn cảnh chưa xuất hiện một tổ chức cách mạng mới có uy tín và trình độ lãnh đạo cao hơn, danh nghĩa Việt Nam Quang phục hội, cùng với uy tín của lãnh tụ Phan Bội Châu vẫn là nguồn cổ vũ và niềm tin cho các lực lượng yêu nước trong những năm chiến tranh.
       Vụ mưu khởi nghĩa ở Huế (3-5-1916)
         Sau phong trào chống thuế ở Trung Kỳ năm 1908, một số sĩ phu yêu nước ở các tỉnh Nam Trung Kỳ chưa bị bắt vẫn nuôi chí căm thù, chờ cơ hội. Họ tập hợp xung quanh Thái Phiên một yếu nhân của Việt Nam Quang phục hội trước đây và Trần Cao Vân một nhà yêu nước đã từng bị Pháp bắt năm 1907-1908. 
     Nhân khi thực dân Pháp thực hiện chiến dịch bắt lính ráo riết, các nhà lãnh đạo phong trào đã đi đến nhất trí tiến hành một cuộc khởi nghĩa dưới danh nghĩa vua Duy Tân, lấy Huế làm địa bàn nổi dậy đầu tiên. Lực lượng khởi nghĩa là những binh lính người Việt, phần lớn là những lính tập, sắp bị đưa sang chiến trường Châu Âu. 
  Hàng ngàn người ở các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi đã tham gia khởi nghĩa. Ho lập xưởng rèn đúc vũ khí, mua sắm quân nhu, quyên góp tiền chờ ngày nổi dậy. Để gây thanh thế cho cuộc khởi nghĩa, những người lãnh đạo đã giao nhiệm vụ cho Thái Phiên và Trần Cao Vân liên lạc với vua Duy Tân, mời ông tham gia cuộc bạo động, kế hoạch khởi sự được dự kiến vào tối ngày 3 rạng ngày 4-5-1916. Song việc chuẩn bị của những người lãnh đạo có nhiều sơ hở nên kế hoạch bị bại lộ các trại lính Việt đều bị đóng chặt cửa, khí giới bị tước. Thái Phiên, Trần Cao Vân và nhiều yếu nhân khác bị bắt. Giặc Pháp đưa vua Duy Tân đi đày và đưa Khải Định con vua Đồng Khánh lên thay. 
     Kế hoạch khởi nghĩa của Thái Phiên và Trần Cao Vân đã bị thất bại, song nó thể hiện tinh thần yêu nước rất cao. 
-         Cuộc khởi nghĩa của binh lính và tù chính trị ở Thái Nguyên (từ 30-8-1917 đến ngày ll-1-1918). 
     Thái Nguyên là một tỉnh lớn, có tầm quan trọng về chính trị và quân sự ở miền rừng núi Bắc Kỳ. Đó là nơi hoạt động của nhiều lực l­ượng chống Pháp nổi tiếng trong những năm thực dân Pháp xâm lược và bình định vùng đất này. 
     Để bảo vệ Thái Nguyên, thực dân Pháp đặt ở đây một lực lượng quân đội lớn, gồm cả lính Pháp và lính khố xanh Việt Nam, nhằm bảo vệ tính và canh giữ một trại giam có chừng 200 tù nhân là các chiến sĩ đã từng tham gia vào phong trào Đông Du, Đông kinh nghĩa thục, chống thuế, vụ đầu độc ở Hà Nội, khởi nghĩa Yên Thế, v.v., tất cả đặt dưới quyền của tên công sứ Đáclơ (Darles) tàn ác.
     Sẵn có môi thù đối với bọn thực dân đế quốc, những tù nhân đang bị giam giữ ở Thái Nguyên và binh lính người Việt đang đóng ở tỉnh lỵ Thái Nguyên và các đồn lân cận đã liên kết với nhau sự lãnh đạo của Lương Ngọc Quyến và Đội Cấn. 
    Nghĩa quân đã nổi dậy ngày 30-8-1912, giết tên giám binh Nhen và tên phó quản tay sai đắc lực của Pháp, làm chủ tỉnh lỵ Thái Nguyên, giương cao lá cờ Nam binh phục quốc. Những người nổi dậy còn phá trại giam, giải phóng 203 tù nhân, thu 168 khẩu súng và sáu vạn viên đạn. 311 nghĩa quân gồm 131 lính khoanh và 180 tù phạm đã tình nguyện đứng d­ưới cờ nghĩa.
     Trong đêm, nghĩa quân lần lượt chiếm các cơ quan cai trị của Pháp ở tỉnh, trừ trại lính Tây. 
     Sáng ra, nghĩa quân treo cờ năm sao đề Nam binh phục quốc ngoài thành rồi dùng loa công bố "Thái Nguyên độc lập", quốc hiệu Đại Hùng và truyền sao bản Tuyên ngôn độc lập với lời lẽ vô vùng thống thiết. 
     Sau khi làm chủ tỉnh lỵ Thái Nguyên, những người lãnh đạo khởi nghĩa mới bàn kế hoạch hành động tiếp theo. Nhiều phương án được đề ra. Qua một hồi bàn cãi, Đội Cấn quyết định cố thủ Thái Nguyên để chờ ngoại viện. 
     Nhân dân nội, ngoại thị, công nhân mỏ than Phấn Mễ và nông dân các huyện xung quanh gia nhập đội nghĩa binh ngày càng đông. 
     Thực dân Pháp huy động 2.000 quân có pháo binh và tàu chiến yểm trợ, dưới sự chỉ huy của viên thiếu tướng, phó tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương và chỉ huy quân đội Pháp ở Bắc Kỳ, tìm mọi cách để dập tắt cuộc khởi nghĩa. 
   Kịch chiến đã diễn ra suốt bốn ngày đêm tại tỉnh lỵ Thái Nguyên. Sau đó, lực lượng nghĩa binh yếu dần, phải rút khỏi tỉnh lỵ, dựa vào vùng núi và sự giúp đỡ của nhân dân cầm cự với giặc. Các toán quân khởi nghĩa đã phải bôn tẩu nhiều nơi từ Thái Nguyên sang Tam Đảo, Vĩnh Yên, tản ra cả vùng Xuân Lai, Phú Xuyên, Hà Đông, xuống Phút Yên rồi có kế hoạch quay về Yên Thế. 
     Cho đến tháng 1-1918, sau sáu tháng chiến đấu rất anh dũng, tiêu diệt hàng trăm tên địch, cuộc khởi nghĩa của binh lính và tù chính trị ở Thái Nguyên đã thất bại. Đây là cuộc bạo động duy nhất trong thời gian chiến tranh đã thành công trong việc lật đổ chính quyền thực dân ở một thị trấn, được sự tham gia của nhiều thành phần dân chúng. Đó là do cuộc khởi nghĩa, trong chừng mực nhất định, đã đáp ứng được nguyện vọng độc lập, tự do của quần chúng lao động và nhất là của những người đang là nạn nhân của bọn quan cai trị thực dân tàn bạo. Những người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa cũng như những nghĩa quân nòng cốt tỏ ra có lòng tin vững chắc vào hành động chính nghĩa của mình và biết gắn hành động của mình vào cuộc vận động cách mạng có xu hướng chính trị tương đối tiến bộ của Việt Nam Quang phục hội. 
     Tuy vậy, cuộc khởi nghĩa vẫn bị thất bại do những lý do khách quan và chủ quan, thể hiện sự khủng hoảng về đường lối và giai cấp lãnh đạo cách mạng ở nước ta lúc đó. Dù sao, hành động của binh lính và tù chính trị Thái Nguyên đã gây được tiếng vang lớn, làm xôn xao dư luận ở Pháp và Đông Dương những năm 1917-1918 và cổ vũ cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ta những năm sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất. 
     Những cuộc bạo động chống Pháp của đồng bào dân tộc ít người
     Sự cướp bóc tàn bạo và dã man của thực dân Pháp trong thời kỳ chiến tranh không những gây nên sự bất bình của nhân dân miền xuôi mà còn gây nên những phản ứng của cả nhân dân các dân tộc miền núi Việt Nam. 
     Tháng 10-1914, người Dao ở Lục An Châu và ở Bảo Hà nổi dậy. Họ tấn công đồn binh nhằm cởi bỏ ách nô lệ. 
     Tháng 11-1914, người Thái ở Tây Bắc do Bạc Cầm Châu, Lương Bảo Định, Cầm Văn Tứ, Lương Văn Nó... lãnh đạo đã đột nhập vào các đồn Pháp ở Sơn La (Tây Bắc), Sầm Na và Phong Xa LÝ (Lào) giết đồn binh Pháp, cư­ớp súng rồi rút về hoạt động ở vùng sông Mã. 
     Cũng trong năm 1914, đồng bào các dân tộc Tây Nguyên đã đứng lên tấn công đồn binh Pháp. Nghĩa quân dưới sự chỉ huy của Nơ Trang Long đã diệt 40 tên Pháp ở Đắc Lắc, nhổ đồn Bumê, giết tên Phó sứ tỉnh Crachê (Campuchia) là TruPhô (1-1915).
     Tại Lai Châu, Sơn La, người Mèo dưới sự lãnh đạo của Giàng Tả Chay (còn được gọi là Pachay hay Bát Chai) nổi dậy từ tháng 8-1918. Nghĩa quân hoạt động trên vùng biên giới Lào - Việt. Nhiều trận đánh đã diễn ra vào tháng 1-1918 và tháng 1-1919 tại Điện Biên (Việt Nam) và Sầm Na (Lào). 
     Phong trào hội kín ở  Nam Bộ Sau khi chiếm xong ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ, thực dân Pháp sử dụng chính sách trực trị để khủng bố nhân dân ta. Mọi biểu hiện yêu nước đều bị đàn áp. Phong trào phải núp dưới các hình thức tôn giáo để tồn tại. 
     Năm 1863, xuất hiện giáo phái có xu h­ướng yêu nư­ớc lấy tên là đạo Lành. Nông dân tham gia khá đông. Tháng 5- 1873, thống đốc Nam Kỳ ra lệnh bắt bớ, đạo Lành tạm thời rút lui, một thời gian sau đổi tên là đạo Phật đường. Năm 1885, những ng­ời cầm đầu đạo Phật đ­ường đã trù liệu một cuộc bạo động võ trang chống Pháp nh­ưng không thực hiện đ­ược bị Pháp khủng bố, phong trào lắng đi một thời gian. 
     Những hội kín ở Nam Kỳ mang màu sắc tôn giáo, như­ng tôn giáo chỉ là phương tiện để tập hợp, cố kết lại với nhau, mục đích chung vẫn là đấu tranh chống bọn đế quốc cướp nước và bọn phong kiến tay sai bán nước.  
     Trong Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, phong trào hội kín ở Nam Bộ gồm nhiều tổ chức như: Thiên địa hội, Nghĩa hoà hội, Duy tân hội, Phục hưng hội, Ái quốc hội, v.v.. 
    Nghĩa quân của các hội này có chừng vài trăm người được vũ trang bằng gậy gộc, giáo mác đã tiến hành đánh phá các trụ sở mộ lính, phá nhà giam, bắt giết bọn quan lại tay sai gian ác. 
    Nơi có phong trào hội kín phát triển mạnh là Biên Hoà, Gia Định, Mỹ Tho, Bạc Liêu, Rạch Giá, Bến Tre, Châu Đốc. 
     Vào đêm 16-2-1916, gần 300 hội viên các hội kín ở Gia Định, Chợ Lớn, Biên Hoà mặc áo đen, quần trắng, cổ quấn khăn trắng mang dao, giáo và kiếm, đi đầu là ng­ười vác lá cờ lớn mang dấu hiệu hội đảng Phan Xích Long tập hợp ở cầu Ông Lãnh rồi chia làm ba ngả tiến vào thành phố Sài Gòn. Mục tiêu của họ là phá khám lớn, giải phóng Phan Xích Long đang bị giam và các tù nhân khác, chiếm các công sở và đưa Phan Xích Long lên làm vua. Do có phòng bị từ trước, quân Pháp đã kịp thời đối phó. Chúng xả đạn vào đám người chỉ có giáo mác và bùa chủ. Cuộc đấu tranh nhanh chóng tan vỡ, một số nghĩa quân bị chết, bị thương và nhiều người bị bắt. 
     Phong trào hội kín Nam Kỳ là một trong những phong trào nông dân rộng lớn nhất ở Việt Nam đầu thế kỷ XX, nổ ra khi những sĩ phu yêu nước có xu hướng tư sản đã đuối sức trước yêu cầu lịch sử, không theo kịp phong trào quần chúng, còn giai cấp tư sản dân tộc mới chỉ đang hình thành. 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét